Khám phá

Số phận căn cứ quân sự bí mật của Mỹ giữa Ấn Độ Dương

Diego Garcia là một trong những tài sản ở nước ngoài bí mật và quan trọng nhất của nước Mỹ, nhưng Washington đứng trước nguy cơ không giữ được quyền kiểm soát nơi này sau phán quyết của Toà án Công lý quốc tế.

Bom bọ cạp và vũ khí sinh học chết người / Nhật thực và dấu hiệu của quỷ dữ trong cổ đại

Theo kênh CNN, căn cứ quân sự bí mật Diego Garcia nằm cách lục địa gần nhất 1.000 dặm, nhưng nó có tất cả những tiện nghi của một thị trấn Mỹ hiện đại.
Cơ sở quân sự của Mỹ trên đảo Diego Garcia nằm giữa Ấn Độ Dương. Ảnh: CNN
Cơ sở quân sự của Mỹ trên đảo Diego Garcia nằm giữa Ấn Độ Dương. Ảnh: CNN

Binh lính tại đây có thể dùng bữa với bánh mì kẹp thịt tại Jake's Place, đánh golf trên sân 9 lỗ, chơi bowling hoặc uống bia ngâm lạnh tại một trong nhiều quán bar. Bộ chỉ huy địa phương đặt biệt danh cho căn cứ này là "Dấu chân Tự do".

Mặc dù ô tô ở đây lái xe ở bên phải đường, hòn đảo không phải là lãnh thổ của Mỹ, nó là một tàn dư từ thời kỳ thực dân Anh. Năm 1965, giữa Chiến tranh Lạnh, Chính phủ Mỹ đã ký một thỏa thuận bí mật, gây tranh cãi với Chính phủ Anh để thuê một trong số 60 đảo san hô tạo nên Quần đảo Chagos ở Ấn Độ Dương để xây dựng căn cứ quân sự.

Chú thích ảnh
Diego Garcia, hòn đảo lớn nhất trong quần đảo Chagos, được Mỹ thuê của Anh từ năm 1966. Ảnh: CNN

Thỏa thuận đó là bí mật vì Vương quốc Anh đang trong quá trình trao trả độc lập cho thuộc địa Mauritius, theo đó quần đảo Chagos cũng được độc lập.

Nhưng Chagos không bao giờ có ngày độc lập. Thay vào đó, nó được tách ra từ Mauritius và đổi tên thành "Lãnh thổ Ấn Độ Dương thuộc Anh", một động thái mà Toà án Công lý Quốc tế (ICJ), tòa án cấp cao nhất của Liên hợp quốc (LHQ), đã phán quyết là bất hợp pháp theo luật pháp quốc tế. Sau phán quyết, nước Anh hiện đã được hướng dẫn để kết thúc quá trình phi thuộc địa hoá và trả lại quần đảo Chagos cho Mauritius.

 

Phán quyết của LHQ, mặc dù không mang tính ràng buộc pháp lý, vẫn có khả năng gây ra một vấn đề lớn cho Mỹ, bởi ngày nay, Diego Garcia là một trong những tài sản ở nước ngoài bí mật và quan trọng nhất của nước này.

Là nơi đồn trú của hơn 1.000 binh sĩ và nhân viên Mỹ, căn cứ tại Diego Garcia được sử dụng bởi Hải quân, Không quân Mỹ và thậm chí cả NASA vì đường băng khổng lồ của hòn đảo được dùng làm nơi hạ cánh khẩn cấp cho các tàu con thoi.

Diego Garcia là bàn đạp trong hai cuộc xâm lược Iraq, đóng vai trò là điểm hạ cánh quan trọng cho đội máy bay ném bom thực hiện các nhiệm vụ trên khắp châu Á, bao gồm cả Biển Đông và có liên quan đến các nỗ lực tái hiện diện của Mỹ.

Chú thích ảnh
Hàng máy bay ném bom B-1 đậu trên đường băng tại căn cứ Mỹ ở Diego Garcia năm 2001. Ảnh: CNN

Nhiều chính trị gia có tiếng nói ở Anh trong đó có Jeremy Corbyn, lãnh đạo Công đảng đối lập, đang kêu gọi Vương quốc Anh trả lại các hòn đảo cho Mauritius. Nếu điều đó xảy ra, các chuyên gia tin rằng quyền sở hữu của Diego Garcia có thể được đưa ra để đàm phán.

Một "chấm nhỏ" trên Ấn Độ Dương

 

Từ Singapore đến Djibouti, từ Bahrain đến Brazil, ngày nay nước Mỹ vận hành khoảng 800 căn cứ quân sự và cơ sở hậu cần bên ngoài lãnh thổ có chủ quyền - nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác.

Hầu hết các căn cứ của Mỹ đã được mua lại trong thời kỳ phi thực dân hóa sau Thế chiến II, khi các cường quốc thực dân truyền thống như Anh và Pháp rời bỏ các thuộc địa trên khắp thế giới, đặc biệt là ở châu Á.

Khi ảnh hưởng của Liên Xô gia tăng trong thời Chiến tranh Lạnh, "dấu chân toàn cầu" của các đồng minh châu Âu bị thu hẹp khiến Mỹ và các đồng minh lo lắng rằng phương Tây đang "mất quyền kiểm soát thế giới", David Vine, tác giả cuốn sách "Đảo xấu hổ", viết về số phận của quần đảo Chagos, giải thích.

Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà trong thời kỳ này, nước Mỹ bắt đầu nỗ lực tạo ra một mạng lưới các căn cứ và cơ sở quân sự mà không phải chịu gánh nặng cai trị một dân tộc thuộc địa. Nhiều chính phủ, như Hàn Quốc, Nhật Bản, Bahrain, đã tìm kiếm các thỏa thuận quốc phòng dài hạn với Mỹ, xem sự hiện diện quân sự bổ sung là một biện pháp bảo vệ cần thiết.

Và năm 1964, Mỹ đã tiếp cận Anh để hỏi thuê một “chấm nhỏ” ở Ấn Độ Dương. David Vine nói: "Lúc đầu, Mỹ không thực sự biết rõ họ sẽ làm gì với nó. Đó là một sự rào đón cho tương lai".

 

Chú thích ảnh
Bản đồ đảo Diego Garcia trong khu vực.

Số phận người bản địa

Năm 1966, Anh và Mỹ ký thỏa thuận mà không có sự giám sát của quốc hội, cho phép Mỹ quyền xây dựng căn cứ quân sự trên Diego Garcia. Mauritius đã được trao 3 triệu bảng Anh (3,9 triệu USD) để đồng ý với thỏa thuận này và các bên thống nhất rằng Mỹ sẽ miễn 14 triệu USDliên quan đến một đơn đặt hàng tên lửa tàu ngầm Polaris của Anh.

Chỉ có một vấn đề rắc rối, đó là 3.000 người Chagos sống trên đảo.

Theo tác giả Vine, những cư dân đầu tiên của Quần đảo Chagos là nô lệ được đưa từ Madagascar và Mozambique đến làm việc trong các đồn điền dừa của người Pháp vào thế kỷ 18. Sau các cuộc chiến tranh thời Napoleon, Pháp đã nhượng lại quần đảo Chagos cho Anh.

Người Chagos đã xây dựng một lối sống dễ chịu khác biệt với ở Mauritius, nơi người dân còng lưng trong trên các đồn điền mía đường. Họ phát triển phiên bản ngôn ngữ Creole của riêng mình, xây trường học cho con cái, chăm sóc khu vườn tư nhân và hướng đến lối sống yên bình.

 

Năm 1967, Mỹ và Anh bắt đầu xé tan cuộc sống đó, trục xuất tất cả cư dân khỏi vùng đất của họ. “Ban đầu, những người đã đi điều trị y tế đặc biệt tại Mauritius không bao giờ được phép quay lại", Pierre Prosper, người sinh ra ở Peros Banhos, một đảo san hô ở phía đông bắc của Chagos nói.

Nguồn cung cấp y tế và thực phẩm cho hòn đảo dần dần bị hạn chế, cho đến cuối cùng, vào năm 1973, tất cả những người còn lại được thông báo rằng họ phải rời đi “trong một đêm”, ông Prosper nói.

Cuộc lưu vong ép buộc của người Chagos không phải là một sự việc đơn lẻ. Vào năm 1946, 167 người bản địa của đảo san hô Bikini đã bị thuyết phục rời khỏi chuỗi 23 hòn đảo thiên đường sau khi Commodore Ben H Wyatt, Thống đốc quân sự của Quần đảo Marshall, tuyên bố vùng đất của họ là cần thiết cho "lợi ích của nhân loại và chấm dứt mọi cuộc chiến tranh thế giới".

Nhưng trên thực tế, tuyên bố trên đồng nghĩa với việc 23 vũ khí hạt nhân đã được thả xuống khu vực đảo Bikini từ năm 1946 đến 1958, như một phần của cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân thời Chiến tranh Lạnh - bao gồm cả vụ nổ mạnh nhất từng được Mỹ kích hoạt.

Chú thích ảnh
Một đám mây hình nấm cuộn lên sau vụ nổ bom nguyên tử ngoài khơi đảo san hô Bikini, Quần đảo Marshall vào tháng 7/1946. Ảnh: CNN

Sau năm 1979, Diego Garcia trải qua cuộc mở rộng lớn nhất của bất kỳ cơ sở quân sự nào của Mỹ kể từ sau Chiến tranh Việt Nam và đi vào hoạt động đầy đủ từ năm 1986.

 

Một trong những điều đầu tiên mà quân đội Mỹ đã làm là đào sâu bến cảng, nhà phân tích quân sự CNN Cedric Leighton, người từng đóng quân tại căn cứ Mỹ trên đảo Guam ở Tây Thái Bình Dương vào những năm 1990, nơi hỗ trợ hậu cần cho Diego Garcia, cho biết. Ngày nay, bến cảng đó đủ lớn để một tàu sân bay sử dụng.

"Ngoài ra còn có những con tàu khổng lồ đậu sẵn, mỗi chiếc có kích thước bằng Tòa nhà Empire State, chứa đầy vũ khí và đồ tiếp tế cho xe tăng, máy bay trực thăng cho toàn bộ lữ đoàn thủy quân lục chiến", tác giả David Vine cho hay.

 
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo

Có thể bạn quan tâm