Khám phá

So sánh hành vi săn mồi của sư tử, hổ và báo đốm cho thấy sự khác biệt về giải phẫu của ba loài mèo lớn!

Sư tử, hổ và báo đốm là ba loài mèo lớn nhất, chúng đều có hình dáng giống mèo và đều là những thợ săn phục kích. Tuy nhiên, chúng cũng có sự khác biệt đáng kể trong các chi tiết khác nhau liên quan đến săn bắn.

Virus SARS-COV-2 có thể đột biến thông qua động vật / Lũ chim nhỏ con cả gan nhổ lông động vật sống về lót tổ

So sánh hành vi săn mồi của sư tử, hổ và báo đốm cho thấy sự khác biệt về giải phẫu của ba loài mèo lớn! - Ảnh 1.

Báo đốm là loài mèo lớn nhất ở Châu Mỹ và là loài mèo lớn thứ ba trên thế giới.

Sư tử là loài kén ăn nhất

Một đặc điểm trong chế độ ăn của sư tử là con mồi thường rất lớn, lớn hơn đáng kể so với hổ và báo đốm. Thức ăn chủ yếu của sư tử bao gồm linh dương đầu bò, trâu rừng, ngựa vằn và nhiều loại linh dương khác nhau tại đồng cỏ Châu Phi. Ở Nam Phi, trọng lượng trung bình của con mồi của sư tử đực là khoảng 400 kg. Sư tử là loài mèo lớn duy nhất sống theo bầy đàn, điều này mang lại cho chúng khả năng săn mồi có tỷ lệ thành công cao đối với các loài động vật móng guốc lớn. Đồng thời, săn mồi theo nhóm cũng có nghĩa là nhu cầu thức ăn lớn hơn, điều này tạo thành áp lực và động lực cho sư tử săn mồi lớn.

So sánh hành vi săn mồi của sư tử, hổ và báo đốm cho thấy sự khác biệt về giải phẫu của ba loài mèo lớn! - Ảnh 2.

Đối tượng săn mồi chính của hổ và báo đốm hầu hết đều bằng hoặc nhỏ hơn trọng lượng của chính bản thân nó. Thức ăn chủ yếu của hổ Siberia là lợn rừng và hươu đỏ, trọng lượng trung bình của con mồi là khoảng 100 kg. Thức ăn chủ yếu của hổ Bengal là hươu đốm trắng, chỉ nặng khoảng 55 kg, bò rừng và bò rừng chân trắng tuy lớn hơn hổ một chút nhưng chúng vẫn được xem là con mồi thứ cấp, nhưng nhìn chung con mồi của hổ sẽ có trọng lượng khoảng 65 kg. Tại Khu bảo tồn Huikenka của Thái Lan, thức ăn chủ yếu của hổ Đông Dương chỉ khoảng 20 kg. Báo đốm Mỹ chủ yếu ăn lợn lòi Pecari, Dasypodidae, chuột lang nước cá sâu và các loài bò sát, con mồi của nó trung bình nặng dưới 20 kg.

Trong ba loài này, sư tử không chỉ là loài săn con mồi lớn nhất mà chúng còn là loài kén ăn nhất. Theo các cuộc điều tra của các chuyên gia, các loại được xem là con mồi trong thực đơn của sư tử về cơ bản chỉ nằm vỏn vẹn trong con số 20 loài, và ở một số khu vực, con số này có thể nhỏ hơn. Để so sánh, thực đơn của hổ tại Nagarhore có 490 loài và hổ tại vườn quốc gia Chitwan của Nepal có 220 loài. Có hơn 100 loài con mồi trong chế độ ăn của báo đốm.

So sánh hành vi săn mồi của sư tử, hổ và báo đốm cho thấy sự khác biệt về giải phẫu của ba loài mèo lớn! - Ảnh 3.

Sư tử hầu như chỉ ăn động vật móng guốc. Ở hầu hết các khu vực, động vật móng guốc chiếm hơn 98% khẩu phần ăn của sư tử. Mặc dù sư tử đôi khi giết các loài ăn thịt khác, bao gồm đồng loại của chúng, báo, linh cẩu hoặc cá sấu, nhưng chúng hầu như không bao giờ ăn thịt chúng. Tại Kruger, các chuyên gia đã thống kê 12.000 cuộc đi săn của sư tử và phát hiện ra rằng tỷ lệ sư tử ăn thịt đồng loại và các loài ăn thịt khác chỉ là 0,4%, và các loài bò sát gần như bằng không.

 

So sánh hành vi săn mồi của sư tử, hổ và báo đốm cho thấy sự khác biệt về giải phẫu của ba loài mèo lớn! - Ảnh 4.

Và mặc dù hổ, báo đốm cũng thích động vật móng guốc, nhưng con mồi của chúng đa dạng hơn thế rất nhiều. Hổ rất thích ăn thịt chó và là kẻ giết chó khét tiếng nhất trong gia đình họ nhà mèo. Hổ Siberia thích gấu, hổ Đông Dương thích lợn lửng, chó rừng, báo, khỉ và thằn lằn đều có trong thực đơn của hổ Bengal. Tại Khu bảo tồn Campeche, Mexico, khẩu phần ăn của báo đốm Mỹ chiếm tới 18% là các loài ăn thịt và chim chiếm 10%; ở một số khu vực như vùng ngập lũ phía bắc Colombia, các loài bò sát (cá sấu, rùa nước ngọt và cự đà) chiếm một vị trí quan trọng trong chế độ ăn của báo đốm Mỹ - hơn 30%.

Bất kỳ động vật nào trong môi trường sống đều là con mồi tiềm năng của chúng và thức ăn ưa thích của chúng là động vật móng guốc. Tuy nhiên, các loài động vật móng guốc lớn trong lãnh thổ của sư tử lại phong phú hơn nhiều so với hổ và báo đốm, vì vậy nó không cần thiết phải cố gắng ăn những động vật khác. Rừng rậm nhiệt đới nơi hổ và báo đốm sinh sống có số lượng động vật móng guốc hạn chế và chúng cũng không dễ bắt gặp nên thành phần thức ăn của chúng cần phải đa dạng hơn.

So sánh hành vi săn mồi của sư tử, hổ và báo đốm cho thấy sự khác biệt về giải phẫu của ba loài mèo lớn! - Ảnh 5.

Kỹ thuật săn bắn: phục kích & hạ gục con mồi

Nói chung, động vật họ mèo là những kẻ săn mồi phục kích, sư tử, hổ và báo đốm cũng không ngoại lệ. Chúng đều phát hiện ra con mồi trước, theo dõi, phục kích rồi sau đó bổ nhào tới gần, cuối cùng là tung đòn tấn công bất ngờ để hạ gục con mồi.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nếu sư tử có thể đến gần linh dương Thomson trong vòng 7,6 mét, tỷ lệ săn thành công sẽ gần như tuyệt đối; nhưng nếu khoảng cách vượt quá 15 mét, thì cuộc săn mồi sẽ có khả năng khá cao là thất bại. Nếu một con mèo lớn muốn đến gần con mồi của nó, nó cần phải ẩn nấp và ngụy trang, điều này không thành vấn đề đối với hổ và báo đốm sống trong rừng, nhưng sư tử thì rắc rối hơn. Vì sư tử sống ở xavan vô tận, tầm nhìn ra môi trường quá cao, do đó con mồi nhìn thấy sư tử xa sẽ bỏ chạy.

 

So sánh hành vi săn mồi của sư tử, hổ và báo đốm cho thấy sự khác biệt về giải phẫu của ba loài mèo lớn! - Ảnh 6.

Để có tỷ lệ săn mồi thành công cao hơn, một số bầy sư tử thường săn mồi vào những đêm không trăng, và một số thích săn mồi trước khi có bão, nhưng do điều kiện môi trường, quãng đường chạy nước rút cuối cùng của sư tử thường lớn hơn hổ và báo đốm. Vì vậy, tốc độ chạy quan trọng đối với sư tử hơn hổ và báo đốm.

Có nhiều cấu trúc giải phẫu ở chi trước của sư tử có liên quan đến tốc độ. Ví dụ, cẳng tay của sư tử tương đối dài, trong khi cánh tay trên tương đối ngắn, điều này rất tốt cho việc tăng chiều dài sải chân. Tỷ lệ chiều dài hướng tâm trên chiều dài cánh tay của sư tử là 91,1%, chỉ đứng sau báo gê-pa (97,5%) và cao hơn nhiều so với hổ (85,6%) và báo đốm (83,3%).

So sánh hành vi săn mồi của sư tử, hổ và báo đốm cho thấy sự khác biệt về giải phẫu của ba loài mèo lớn! - Ảnh 7.

Sư tử đã không ngần ngại hy sinh một phần sức mạnh của mình để có được tốc độ nhanh hơn. Chiều dài hướng tâm/chiều dài cánh tay tương đối cao có nghĩa là cánh tay chống (cẳng tay) dài hơn và cánh tay trợ lực (cánh tay trên) ngắn hơn. Theo cách này, sức mạnh cơ bắp, sức mạnh thực tế của hai chân trước ở sư tử sẽ không thể mạnh bằng hổ và báo đốm - sức mạnh của hai chân trước liên quan trực tiếp đến khả năng hạ gục con mồi. Và nếu như ba loài sư tử, hồ, báo có kích thước bằng nhau thì báo đốm sẽ là loài có sực mạnh ở hai chân trước lớn nhất.

Chỉ số diện tích bám của cơ chính teres trên xương bả vai là 35,3% đối với sư tử, gần bằng 38,1% đối với báo gê-pa và lớn hơn nhiều so với báo đốm là 27-28%, trong khi hổ giống với sư tử, cũng là 35,3%. Từ đó có thể thấy được rằng con mồi của báo đốm, trong các cuộc săn mồi, sức mạnh là quan trọng nhất, tốc độ là thứ yếu. Thức ăn chính của hổ là hươu cũng chạy nhanh, vì vậy hổ cần cả sức mạnh cũng như tốc độ.

So sánh hành vi săn mồi của sư tử, hổ và báo đốm cho thấy sự khác biệt về giải phẫu của ba loài mèo lớn! - Ảnh 8.

Các nhà nghiên cứu đã đo tốc độ của hổ và sư tử và nhận thấy rằng tốc độ của hổ Bengal là 56km/h (Deer and Tiger, 1967) và sư tử là 59km/h (Lion of Serengeti, 1972). Một tài liệu khác cũng chỉ ra rằng tỷ lệ chênh lệch của tốc độ chạy tương đối ở động vật ở hổ là 54,4km/h và sư tử là 57,3km/h. Các giá trị được đưa ra trong Wikipedia cho thấy tốc độ của động vật trên cạn là 51,4km/h đối với hổ, 53,5km/h đối với sư tử và 46,7km/h đối với báo đốm. Kết quả kiểm tra thực tế cho thấy sư tử nhanh hơn hổ một chút, còn báo đốm chậm hơn đáng kể so với hai đàn anh của mình.

 

 
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo

Có thể bạn quan tâm