Khám phá

Vị vua nào của nhà Lý gặp nhiều đau khổ, bất hạnh và từng bị điên?

Trong số vua thời phong kiến, ông là vị vua gặp nhiều đau khổ, bất hạnh hơn cả. Cuộc đời và sự nghiệp của ông hầu như chỉ có nỗi buồn, chẳng mấy niềm vui. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: 'Vua gặp buổi loạn lạc, giặc cướp tứ tung, mình bị bệnh nặng, không biết sớm cầu con nối dõi, họ Lý phải mất'.

Ảnh minh họa.

Trong số vua thời phong kiến, Lý Huệ Tông (1194-1226) là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lý, cai trị từ năm 1210 đến năm 1224. Ông tên thật là Lý Sảm hay Lý Hạo Sảm, sinh tại kinh đô Thăng Long, Đại Việt. Ông là vị vua gặp nhiều đau khổ, bất hạnh hơn cả. Cuộc đời và sự nghiệp của ông hầu như chỉ có nỗi buồn, chẳng mấy niềm vui. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Vua gặp buổi loạn lạc, giặc cướp tứ tung, mình bị bệnh nặng, không biết sớm cầu con nối dõi, họ Lý phải mất”. Tháng 12 năm 1216, Thuận Trinh Phu nhân Trần Thị Dung được phong làm Hoàng hậu.

Vua Huệ Tông lại bị trúng phong, đau yếu luôn, không đi đâu được, lại không sinh được hoàng tử, chỉ có toàn công chúa. Tháng 3 năm Đinh Sửu (1217), vua phát điên, nhiều lúc tự xưng là Thiên tướng giáng trần, tay cầm giáo và mộc, cắm cờ nhỏ vào búi tóc và múa hát: Ta đây là tướng nhà trời, Hôm nay giáng thế cho người sợ oai. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết đến năm Đinh Sửu (1217) “mùa xuân, tháng 3, vua dần phát chứng điên, có lúc nói là Thiên tướng giáng hạ, tay cầm giáo và mộc, cắm cờ nhỏ vào búi tóc, đùa múa từ sáng sớm đến chiều không nghỉ; có khi thôi đùa nghịch, đổ mồ hôi, nóng bức khát nước, thì uống rượu ngủ li bì, đến hôm sau mới tỉnh. Chính sự không biết đến, giao phó cho Trần Tự Khánh. Quyền lực nhà nước dần dần về tay khác”.

Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, quyền lực lại rơi vào tay em họ Tự Khánh là Trần Thủ Độ. Anh Tự Khánh là Trần Thừa được phong là Phụ quốc Thái úy. Năm 1224, bệnh vua càng nặng hơn. Vua đem chia cả nước làm 24 lộ, chia cho các công chúa, lại phong Trần Thủ Độ làm Điện tiền Chỉ huy sứ. Đến tháng 10, dưới sức ép của Trần Thủ Độ, ông chính thức nhường ngôi lại cho con gái là công chúa Chiêu Thánh mới lên 8 tuổi, tức là Lý Chiêu Hoàng. Huệ Tông lên làm Thái thượng hoàng và đi tu ở chùa Bát Tháp, lấy pháp danh là Huệ Quang Đại sư.

Năm 1224, bệnh của vua Lý Huệ Tông ngày càng nặng hơn, không có con trai để nối dõi nghiệp lớn, các công chúa thì được chia về các lộ làm ấp thang mộc. Vua ủy nhiệm một mình Trần Thủ Độ (em họ vợ) làm Điện tiền chỉ huy sứ. Tháng 10 năm Giáp Thân (1224), trước sức ép của Trần Thủ Độ, vua Lý Huệ Tông đã xuống chiếu truyền ngôi cho con gái thứ là Lý Phật Kim (Chiêu Hoàng) rồi đi tu ở chùa Chân Giáo trong hoàng thành Thăng Long với pháp hiệu là Huệ Quang thiền sư. Sách Giản yếu sử Việt Nam viết Trần Thủ Độ có lần đi qua cổng chùa, thấy Huệ Tông đang ngồi nhổ cỏ, liền nói “Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ sâu”. Huệ Tông đứng dậy, phủi tay trả lời “Điều ngươi nói, ta hiểu rồi”. Sau đó ông tự tử, trước khi chết còn khấn “Thiên hạ nhà ta đã vào tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến khi thác con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế”. Lý Huệ Tông mất ngày 10 tháng 8 năm Bính Tuất (1226), thọ 33 tuổi, làm vua được 14 năm và đi tu 2 năm. Theo Đại Việt sử kí toàn thư, đời sau có người làm phép chiết tự cho rằng tên ông là Sảm, theo Hán tự có nghĩa là mặt trời gác núi, theo nghĩa đó mà suy thì đến đời Lý Hạo Sảm, mặt trời nhà Lý sẽ tắt.

Vua Lý Cao Tông (1173–1210) là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Lý, cai trị từ năm 1175 đến năm 1210. Thời vua Lý Cao Tông triều chính suy yếu trầm trọng, loạn lạc nổi lên khắp nơi do người đứng đầu triều đình xa hoa trụy lạc. Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại “vua chơi bời vô độ, hành chính không rõ ràng, giặc cướp nổi lên như ong, đói kém liền năm”. Sách Việt sử lược ghi vua “rất ham của cải lợi lộc, lấy việc bán quan buôn ngục làm chính sự”. Mỗi khi có vụ kiện tụng, vua thường lợi dụng, vì thế “kho đụn của nhà nước của cải chất như núi, còn bách tính thì kêu ca, oán thán. Giặc cướp nổi lên như ong". Vua Lý Cao Tông lại có tính rất thích chơi bời, du ngoạn, yến ẩm. “Nhà vua thường ra ngoài cung Hải Thanh. Đêm nào cũng sai nhạc công gảy đàn Bà Lỗ, hát khúc hát theo điệu Chiêm Thành, tiếng nghe ai oán, thảm thiết, tả hữu nghe hát đều rời nước mắt. Tăng phó Nguyễn Thường nói với vua rằng Tôi thấy bài tự Kinh Thi có nói: Âm nhạc của nước loạn nghe như thương như nhớ, vì nhân dân nước ấy bị khốn cùng. Nay chúa thượng dong chơi vô độ, chính sự giáo hóa sai trái lìa tan, dân đen buồn khổ đến thế là cùng. Mà ngày nay nghe âm nhạc ai oán, đó chẳng phải là điềm nước loạn, nước mất hay sao”. Năm 1203, Cao Tông còn cho xây dựng một loạt điện, thềm trước kinh thành. Ngay cả những năm loạn lạc nhất, đường sá bị tắc nghẽn mà vua vẫn thích rong chơi, nhưng không đi đâu được, bèn sai làm hành cung Ứng Phong, Hải Thanh, hàng ngày đem bọn cận thần, cung nữ, phường tuồng chèo thuyền bé làm nghi vệ như vua ngự đi chơi đâu đó. Rồi sai lấy sáp ong bọc những tấm lụa và các thứ hải vật thả xuống ao rồi sai người lội xuống mò lên giả làm đồ vật dưới long cung đem dâng…

Vua Lý Huệ Tông, tên húy là Lý Hạo Sảm, sinh tháng 7 năm Giáp Dần (1194). Ngày 28 tháng 10 năm 1210, vua Lý Cao Tông mất, hoàng thái tử Hạo Sảm lên ngôi trước linh cữu, khi ấy 16 tuổi. Lý Anh Tông, tên húy là Lý Thiên Tộ, sinh vào tháng 4 năm Bính Thìn (1136), đến tháng 4 năm Mậu Ngọ (1138) được lập làm hoàng thái tử. Ngày 26 tháng 9, vua Lý Thần Tông mất. Đến mùa đông, ngày 1 tháng 10, hoàng thái tử Thiên Tộ lên ngôi trước linh cữu, mới lên 3 tuổi. Lý Cao Tông, tên húy là Lý Long Trát (hay Lý Long Cán) sinh vào ngày 25 tháng 5 năm Quý Tỵ (1173). Đến mùa thu, tháng 7 năm 1175, vua Lý Anh Tông mất, thái tử Long Trát lên ngôi trước linh cữu, khi ấy 3 tuổi.

Theo Đỗ Hợp/Tiền Phong

loading...

 
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo