Chuyển đổi số

Giải pháp cho truy xuất nguồn gốc và nâng tầm hàng hóa

DNVN - Theo giới chuyên gia, năng lực công nghệ của Việt Nam đã hoàn toàn sẵn sàng cho việc triển khai truy xuất nguồn gốc hàng hoá quy mô lớn nhưng hiệu quả thực tế vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng.

Từ giao thông thông minh tới quản trị số: Hà Nội nhận giải cao tại ASOCIO 2025 / Khai mạc ngày hội mua sắm trực tuyến lớn nhất năm

Thách thức nằm ở sự đồng bộ

Chuyển đổi số đang mở ra một kỷ nguyên phát triển mới cho kinh tế - xã hội Việt Nam. Việc đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ chiến lược từ AI, Blockchain, Big Data, Cloud Computing đến truy xuất nguồn gốc thông minh không chỉ là yêu cầu tất yếu, mà còn là đòn bẩy quan trọng giúp Việt Nam bứt phá và hội nhập sâu vào nền kinh tế số toàn cầu.

Tại Việt Nam, công nghệ truy xuất nguồn gốc được đặc biệt quan tâm kể từ khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 100/QĐ-TTg ngày 19/1/2019 phê duyệt Đề án triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc. Từ đó đến nay, các địa phương và doanh nghiệp đã tích cực ứng dụng công nghệ số trong quản lý, giám sát và minh bạch hóa sản phẩm, góp phần nâng cao chất lượng, uy tín và giá trị thương hiệu Việt.

Tại diễn đàn "Tương lai số Việt Nam 2025 với chủ đề: Phát triển, ứng dụng công nghệ chiến lược cho chuyển đổi số và truy xuất nguồn gốc – Đòn bẩy kiến tạo tương lai số cho Việt Nam hội nhập” ngày 19/11 tại Hà Nội, các chuyên gia cho rằng, năng lực công nghệ của Việt Nam đã hoàn toàn sẵn sàng cho việc triển khai quy mô lớn.

Ông Phan Đức Trung - Chủ tịch Hiệp hội Blockchain Việt Nam và Tài sản số Việt Nam nhấn mạnh, Blockchain không chỉ bảo đảm tính toàn vẹn và bất biến của dữ liệu, mà còn giúp đưa chi phí truy xuất về mức gần như bằng không. Với các nền tảng công nghệ mã nguồn mở hiện nay, việc xử lý hàng trăm nghìn giao dịch mỗi giây là hoàn toàn khả thi.


Hiệu quả thực tế của việc truy xuất nguồn gốc hàng hoá quy mô lớn vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng.

"Nếu có sự đồng thuận về mặt pháp lý và tiêu chuẩn chung như GS1, chúng tôi chỉ cần 6 tháng để hoàn thiện một hệ thống truy xuất nguồn gốc quy mô quốc gia", ông Phan Đức Trung cho biết.

Từ góc độ nông nghiệp, ông Nguyễn Bảo Trung - Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng sự kết hợp giữa AI, Big Data và IoT sẽ tạo ra một cuộc cách mạng trong quản lý.

"AI có thể phân tích dữ liệu từ cảm biến IoT về giống, vùng trồng, thời tiết để dự báo sản lượng. Nếu con số báo cáo vượt ngưỡng thực tế, hệ thống sẽ cảnh báo dấu hiệu gian lận", ông Nguyễn Bảo Trung phân tích.

Từ góc độ quản lý thị trường, ông Nguyễn Đức Lê - Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước (Bộ Công Thương) chỉ ra một thực tế cấp bách: sự manh mún của các giải pháp công nghệ.

"Hiện có hàng chục doanh nghiệp cung cấp ứng dụng truy xuất khác nhau. Lực lượng quản lý thị trường không thể cài tất cả các app này để đi kiểm tra. Chúng ta cần một ứng dụng chung, một nền tảng tổng thể", ông Lê nêu.

Theo ông Lê, trong bối cảnh Việt Nam chuyển từ "tiền kiểm" sang "hậu kiểm", vai trò của công nghệ càng trở nên quan trọng. Một hệ thống truy xuất hoàn chỉnh sẽ giúp cơ quan nhà nước giám sát việc tuân thủ quy chuẩn ngay từ đầu và cảnh báo sớm cho người tiêu dùng về các sản phẩm rủi ro như hàng sắp hết hạn hoặc không bảo đảm an toàn.

Những "nút thắt" cần tháo gỡ

Dù công nghệ đã sẵn sàng, các chuyên gia đều đồng tình rằng con đường triển khai vẫn còn nhiều thách thức lớn, chủ yếu đến từ yếu tố con người và cơ chế.

Trong đó, ông Nguyễn Bảo Trung đã chỉ ra 4 khó khăn chính. Thứ nhất, dữ liệu thiếu quy chuẩn bởi mỗi hệ thống, mỗi ngành lại có một tiêu chuẩn dữ liệu riêng, gây khó khăn cho việc liên thông. Thứ 2, mô hình sản xuất nhỏ lẻ do nông nghiệp Việt Nam còn manh mún, các hộ cá thể gặp khó khăn về chi phí để duy trì và cập nhật dữ liệu vào hệ thống chung. Thứ 3, yêu cầu thị trường đa dạng, mỗi thị trường xuất khẩu (EU, Mỹ, Trung Quốc) lại có yêu cầu truy xuất khác nhau. Thứ 4, thiếu sự phối hợp và xác thực khi dữ liệu hiện nay chủ yếu do doanh nghiệp tự khai báo, thiếu sự tham gia xác thực của cơ quan quản lý nhà nước, làm giảm giá trị và độ tin cậy.

Đồng quan điểm, ông Đỗ Hồng Chung - Phó Chánh Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia khẳng định cơ chế chia sẻ dữ liệu phải trở thành bắt buộc giữa các bộ ngành và các nhà cung cấp nền tảng.

"Thực tế có những trường hợp hàng hóa có địa chỉ thật, doanh nghiệp thật, tem chống giả thật nhưng bản chất vẫn là hàng giả về chất lượng. Do đó, truy xuất không chỉ là nguồn gốc, mà phải kiểm soát cả chất lượng đi kèm", ông Chung nêu.

Để giải quyết những vấn đề này, theo các chuyên gia, cơ quan làm chính sách, lực lượng thực thi và doanh nghiệp công nghệ cần ngồi lại với nhau để xây dựng một hành lang pháp lý thống nhất và một kiến trúc hệ thống tổng thể, bảo đảm dữ liệu được liên thông, minh bạch và có giá trị pháp lý.

Nguyệt Minh
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Có thể bạn quan tâm