Doanh nghiệp trong nước vẫn 'chưa hết cô đơn'
Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) giữa kỳ 2018, ngày 4/7 có chủ đề mà chính ông Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho là "không mới": Liên kết doanh nghiệp trong nước và nước ngoài – hợp tác hướng tới lợi ích chung. Theo ông Lộc, những hình ảnh như doanh nghiệp trong nước cô đơn, không "kết hôn" được với doanh nghiệp ngoại... từng được đề cập nhiều song vẫn chưa được khoả lấp.
Để trong nước không còn là "ốc đảo", doanh nghiệp trong nước hết "cô đơn", theo ông Lộc, trước tiên Chính phủ cần thực hiện triệt để các mục tiêu cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. "Đây là biện pháp mà chúng ta luôn có thể chủ động thực hiện, luôn khả thi và ít tốn kém trong khi hiệu quả lại rất đáng kể, đặc biệt trong thúc đẩy xuất nhập khẩu, tận dụng cơ hội mới về thương mại và đầu tư", ông Lộc nêu.
Mặt khác, theo ông, nên tăng cường các nỗ lực mở các con đường ưu tiên cho doanh nghiệp xuất khẩu thông qua các Hiệp định thương mại tự do (FTA), để xuất khẩu Việt Nam tìm được con đường riêng, ổn định trong bối cảnh thương mại thế giới diễn biến phức tạp.
"Các cơ quan thực thi, quản lý nhà nước cần đẩy nhanh hơn cải cách thủ tục hành chính liên quan đến xuất nhập khẩu như đã đề cập ở phần trên. Đó là yêu cầu rất cấp bách", ông Lộc nói.
Đồng tình với đại diện VCCI, Bộ trưởng Kế hoạch & Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cũng cho rằng, sự liên kết giữa khu vực FDI với doanh nghiệp trong nước cùng tham gia chuỗi giá trị chưa đạt như kỳ vọng, phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ và hoạt động chuyển giao công nghệ còn ở mức thấp.
Nhận xét này của ông Dũng nhận được sự đồng tình từ phía Đồng chủ tịch VBF, ông Tamaso Andreatta. Cơ cấu doanh nghiệp Việt Nam thường quá nhỏ, thiếu kiến thức và kinh nghiệm trong tiếp thị sản phẩm có chất lượng, giá hợp lý ra thị trường toàn cầu. "Đó là lý do doanh nghiệp FDI vẫn phải mang các nhà cung cấp từ bên ngoài vào thay vì sử dụng nhà cung cấp Việt Nam", ông Tomaso nói.
Đồng chủ tịch VBF cũng lo lắng về khả năng vỡ bong bóng bất động sản và gây hậu quả lên hệ thống ngân hàng, ảnh hưởng đến nền kinh tế. Để giải quyết, ông Tomaso cho rằng, nhà chức trách cần hướng các công ty lớn trong nước từ bỏ bất động sản, hướng tới quản lý chuyên nghiệp hơn và đặt nền tảng cho các công ty thuộc ngành công nghiệp và công nghiệp hiện đại.
Hơn nữa, xu hướng bảo hộ ngày càng tăng của nhiều quốc gia và khu vực kinh tế sẽ khiến nền kinh tế Việt Nam với độ mở cao bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi các cuộc chiến tranh thương mại…
Cùng bày tỏ quan tâm về vấn đề thương mại, ông Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) quan ngại, những biện pháp bảo hộ - trả đũa qua lại nhau giữa các nền kinh tế lớn, nhất là giữa Mỹ và Trung Quốc, có thể ảnh hưởng tới thương mại và đầu tư của Việt Nam theo những chiều hướng rất khác nhau.
Ông Lộc phân tích, ở chiều tích cực, Việt Nam có thể tận dụng được cơ hội từ thị trường Mỹ khi hàng hóa cùng loại của Trung Quốc bị áp thuế cao. Ngược lại, Việt Nam đứng trước nguy cơ nhập siêu trầm trọng hơn từ Trung Quốc khi xuất khẩu sang thị trường này khó khăn hơn, bởi đáng lý một phần hàng hóa Trung Quốc lẽ ra xuất khẩu buộc phải tiêu dùng trong nội địa.
Với chủ đề liên kết doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, hướng tới lợi ích chung, Bộ trưởng Dũng đề nghị, những phản ánh của cộng đồng doanh nghiệp đi sâu phân tích, đánh giá khó khăn, nguyên nhân, bài học và đề xuất các giả
i pháp nhằm tăng cường mối liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI.
Ngoài sự chủ động tạo điều kiện để doanh nghiệp Việt có cơ hội tham gia từng bước vào chuỗi cung ứng của khối ngoại, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, các doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực đổi mới tư duy quản lý theo hướng hiện đại, tiếp cận công nghệ tiên tiến, nâng cao kỹ năng và trình độ lao động, tăng năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh... Chính phủ phải có các biện pháp thiết thực nhằm tạo điều kiện và hỗ trợ cho sự liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài một cách hiệu quả và dễ tiếp cận.
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, sau 30 năm thu hút FDI đã có 128 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với khoảng 26.000 dự án, tổng vốn đăng ký trên 326 tỷ USD và vốn thực hiện trên 180 tỷ USD. Trong đó, khối ngoại đã có những hiệu ứng lan toả trên nhiều lĩnh vực kinh tế, góp 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và 20% GDP hay 72,6% tổng kim ngạch xuất khẩu và tạo công ăn việc làm cho 3,6 triệu lao động trực tiếp, 5-6 triệu lao động gián tiếp... |
End of content
Không có tin nào tiếp theo