Giải pháp nào để công nghiệp hỗ trợ vào sâu chuỗi cung ứng toàn cầu?
Chuyên gia: Thiếu nền tảng GHG Protocol, kiểm kê phát thải chỉ là hình thức / Canada siết hạn ngạch thuế quan: Thép Việt đối diện thách thức lớn
Nhiều dư địa nhưng thiếu kết nối
Việt Nam hiện có khoảng 5.000 doanh nghiệp CNHT, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như cơ khí, điện tử, dệt may, da giày. Tuy nhiên, gần 88% trong số này là doanh nghiệp nhỏ và vừa, phần lớn sử dụng thiết bị lạc hậu, thiếu tiêu chuẩn chất lượng, chỉ khoảng 10% ứng dụng tự động hóa và dưới 20% đạt chứng nhận ISO hay áp dụng các mô hình quản trị hiện đại như 5S, Lean, TQM. Do đó, phần lớn mới chỉ tham gia ở công đoạn gia công cấp thấp, khó tiếp cận đơn hàng lớn từ các tập đoàn toàn cầu.
Thực tế, tỷ lệ nội địa hóa trong nhiều ngành công nghiệp chủ lực vẫn ở mức thấp: ngành ô tô chưa đạt mục tiêu 40%, ngành điện tử, dù có sự hiện diện của nhiều “ông lớn”, nhưng vẫn thiếu hụt nghiêm trọng nguồn cung linh kiện trong nước. Hiện có khoảng hơn 6.000 doanh nghiệp CNHT nhưng mới chỉ đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu linh kiện, phụ tùng cho sản xuất trong nước. Nếu chỉ tính doanh nghiệp Việt, tỷ lệ nội địa hóa chỉ đạt khoảng 15,7%.
Tại hội thảo “Xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ” ngày 5/8 tại Hà Nội, ông Vũ Bá Phú – Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) khẳng định, trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đang tái cấu trúc, Việt Nam nổi lên như trung tâm sản xuất chiến lược tại Đông Nam Á. Chính phủ đang ưu tiên phát triển CNHT với nhiều chính sách ưu đãi về đầu tư, thương mại và hỗ trợ kỹ thuật nhằm tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm phụ thuộc nhập khẩu.

Năm 2024, riêng ngành chế biến - chế tạo đã thu hút hơn 25,5 tỷ USD vốn FDI đăng ký mới, chiếm gần 67% tổng vốn FDI vào Việt Nam. Các lĩnh vực như linh kiện điện tử, cơ khí chính xác, phụ tùng ô tô – xe máy điện… đang được nhiều tập đoàn đa quốc gia quan tâm. Theo khảo sát của JETRO, hơn 56% doanh nghiệp Nhật tại Việt Nam dự định mở rộng đầu tư trong 1–2 năm tới, với ưu tiên hàng đầu là mở rộng chuỗi cung ứng tại chỗ.
Hiện có khoảng 1.700 doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực CNHT, chiếm 40% toàn ngành. Điều này phản ánh rõ mức độ quan tâm và vai trò của Việt Nam ngày càng gia tăng trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
"Trong khi các doanh nghiệp Việt đang tích cực đổi mới công nghệ, phương thức quản trị và nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu và tận dụng hiệu quả làn sóng chuyển dịch đầu tư mới, việc thu hút đầu tư FDI có chọn lọc và thúc đẩy kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa sẽ là yếu tố then chốt trong việc nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam", ông Phú nhìn nhận.
Hướng tới đột phá từ chính sách mới
Ông Chu Việt Cường - Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ phát triển Công nghiệp, Cục Công nghiệp (Bộ Công thương) cho biết, Nghị định 205/2025/NĐ-CP là phiên bản nâng cấp toàn diện so với Nghị định 111/2015/NĐ-CP. Theo đó, đã mở rộng khái niệm CNHT bao gồm cả các hoạt động chế biến, gia công vật liệu và dịch vụ hỗ trợ như chuyển đổi số, nhà máy thông minh…
Đáng chú ý, chính sách mới nâng mức hỗ trợ tài chính lên tới 70% cho các hoạt động phát triển thị trường, hợp tác công nghệ. Đồng thời đơn giản hóa thủ tục hành chính, cho phép nộp hồ sơ trực tuyến và tăng phân cấp cho địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư.
Cũng đề cập đến chính sách, ông Phạm Thanh Bình – Giám đốc Trung tâm xúc tiến, thông tin và hỗ trợ đầu tư phía Bắc, Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Tài chính) cho biết, các dự án CNHT thuộc danh mục ưu tiên được hưởng thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi 10% trong 15 năm, miễn 4 năm đầu và giảm 50% trong 9 năm tiếp theo; đồng thời được miễn thuế nhập khẩu hàng hóa tạo tài sản cố định, ưu đãi về đất đai và tín dụng.

Trong khi đó, chia sẻ từ kinh nghiệm thực tế khi đầu tư nhà máy sản xuất linh kiện hàng không tại KCN Đồng Văn III (HANSSIP), ông Masaru Onaga - CEO Công ty TNHH Onaga Việt Nam đã chỉ ra những vướng mắc mà các doanh nghiệp nước ngoài thường gặp phải.
"Thị trường Việt Nam rất hấp dẫn, nhưng nhiều doanh nghiệp Nhật vẫn còn do dự vì những vướng mắc trong thủ tục", ông Onaga cho biết.
Trong đó, thủ tục hành chính chưa đồng bộ. Các biểu mẫu hồ sơ còn chưa thống nhất, thiếu một danh sách kiểm tra (checklist) rõ ràng, dẫn đến việc hồ sơ thường xuyên bị trả lại do thiếu sót. Tình trạng "dò dẫm" này làm kéo dài thời gian và tăng chi phí cho nhà đầu tư.
Một vấn đề khác cũng được ông Masaru Onaga chỉ ra là sự thiếu đồng bộ trong nhận thức giữa các cấp.
"Có những hồ sơ đã được nhân viên phụ trách thông qua, nhưng khi lên cấp trên lại bị từ chối, khiến công sức một, hai tháng trời của chúng tôi đổ bể và phải làm lại từ đầu", CEO Công ty TNHH Onaga Việt Nam phản ánh.
Dù đánh giá cao trình độ của các doanh nghiệp Việt, ông Onaga nhận thấy họ gặp khó khăn trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế khắt khe như AS9100 (tiêu chuẩn ngành hàng không). Rào cản về ngôn ngữ (thiếu tài liệu tiêu chuẩn bằng tiếng Việt) và chi phí chứng nhận cao là những thách thức lớn.
Trước những vướng mắc này, ông Masaru Onaga đề xuất hợp tác giữa chính phủ hai nước Việt Nam và Nhật Bản để xây dựng một bộ quy trình chuẩn với biểu mẫu và checklist thống nhất, minh bạch. Đơn giản hóa thủ tục để doanh nghiệp có thể tự thực hiện, giảm sự phụ thuộc vào các công ty tư vấn. Hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam bằng cách cung cấp các bản dịch chính thức của tiêu chuẩn quốc tế và có chính sách hỗ trợ một phần chi phí để họ đạt được các chứng nhận quan trọng.
“Với cơ chế hỗ trợ rõ ràng và hiệu quả, Việt Nam sẽ không chỉ là điểm đến hấp dẫn cho ngành sản xuất mà còn cho nhiều lĩnh vực khác”, ông Onaga nhấn mạnh.
End of content
Không có tin nào tiếp theo