Hiệp định CPTPP

Giải pháp phát triển bền vững doanh nghiệp nông nghiệp

Dưới tác động của các Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong những năm qua xuất khẩu Việt Nam nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng đã có sự phát triển nhanh chóng, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, tăng trưởng GDP.

Khả năng tận dụng các ưu đãi từ CPTPP của Việt Nam còn thấp / Vì đâu lợi ích từ CPTPP nằm trên giấy?

Tuy nhiên việc xuất khẩu hàng hóa nông sản chủ lực của Việt Nam còn một số khó khăn, hạn chế chính. Cụ thể, chưa có quy trình chuẩn hóa cho sản xuất và xuất khẩu từng sản phẩm nông sản cụ thể. Điều này dẫn tới việc xuất khẩu sản phẩm mang tính tự phát, xa rời nhu cầu thị trường, đầu tư phân tán, kém hiệu quả, chủ yếu cung cấp tại thị trường nội địa và xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc, khó tiếp cận thị trường quốc tế.

Các doanh nghiệp cần đầu tư công nghệ hiện đại để có được các sản phẩm chuẩn quốc tế.

Các doanh nghiệp cần đầu tư công nghệ hiện đại để có được các sản phẩm chuẩn quốc tế.

Chúng ta cũng chịu sự cạnh tranh gay gắt của các nước có lợi thế về các hàng hóa nông sản xuất khẩu tương tự như Thái Lan, Ấn Độ, Indonesia.. về giá cả, mẫu mã, chất lượng, chủng loại mặt hàng. Phải đối mặt với hàng rào kỹ thuật của các nước nhập khẩu, nhất là các nước phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Rào cản lớn nhất là phải đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế nghiêm ngặt của nước nhập khẩu như vệ sinh, chất lượng, sự đa dạng, cam kết về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững, hợp pháp...

Nông sản Việt cơ bản chưa có thương hiệu trên thị trường quốc tế, chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô, chưa qua chế biến nên giá trị gia tăng không nhiều, không bán được giá cao. Các doanh nghiệp, cơ sở chế biến còn nhỏ bé về quy mô, lạc hậu về công nghệ. Số doanh nghiệp có dây chuyền sản xuất, chế biện hiện đại còn ít, chỉ chiếm khoảng 20- 30%.

Nguồn hàng xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào thời vụ, số lượng chưa đủ để đáp ứng yêu cầu thị trường quốc tế, chất lượng sản phẩm không đồng đều, không đạt các tiêu chuẩn quốc tế. Các sản phẩm hữu cơ (organic) chiếm tỷ lệ rất nhỏ mặc dù đây là xu hướng tiêu dùng của thế giới, được người tiêu dùng ưa chuộng mặc dù giá cả cao hơn các sản phẩm thông thường.

Công tác xúc tiến thương mại, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, sản phẩm hàng hóa của Việt Nam ra thị trường quốc tế; công tác nghiên cứu, dự báo thị trường mặc dù đã có cố gắng nhưng còn nhiều hạn chế, thiếu chuyên nghiệp, thiếu liên kết, chưa song hành và hỗ trợ kịp thời doanh nghiệp trong các hoạt động tiếp thị, xúc tiến bán hàng.

 

Các hạn chế, yếu kém trên là nguyên nhân cơ bản của tình trạng “được mùa mất giá”, “được giá mất mùa” làm cho người nông dân lao đao, mất định hướng trong việc “trồng cây gì”, “nuôi con gì” và nuôi trống bằng giống nào, cách nào, phương thức nào, bán hàng cho ai? Vì thế khi các Hiệp định thương mại tự do có hiệu lực, có những mặt hàng thuế nhập khẩu giảm về 0% đối với một số thị trường nhưng các nông sản chủ lực của Việt Nam vẫn chưa thể thâm nhập.

Mục tiêu xuất khẩu bền vững

Nghị quyết số 26 NQ/TW ngày 5/8/2008 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã đề ra mục tiêu: “Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài”.

Việt Nam đang thực hiện 13 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có những Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mang lại rất nhiều cơ hội cho xuất khẩu nông sản sang các thị trường lớn và tiềm năng như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA).

Để có thể tận dụng được các cơ hội của hội nhập quốc tế mang lại, cần phát huy tối đa thế mạnh về các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Muốn như vậy, cần triển khai một số giải pháp, mà trước hết là xây dựng quy trình chuẩn cho sản xuất và xuất khẩu nông sản hữu cơ (organic) chủ lực. Theo đó, Nhà nước (các bộ ngành, địa phương) đặt hàng các cơ quan, tổ chức (các trường đại học, Viện nghiên cứu, Hiệp hội doanh nghiệp…) xây dựng quy trình chuẩn cho việc sản xuất các nông sản hữu cơ xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trên cơ sở Chương trình quốc gia về phát triển các nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.

 

Quy trình này cần nghiên cứu nhu cầu thị trường quốc tế và tiềm năng của Việt Nam xác định mặt hàng nông sản nào là chủ lực, thị trường chính và tiềm năng, đối thủ cạnh tranh.

Xác định quy mô thị trường trong ngắn hạn và dài hạn để xây dựng chiến lược phát triển nguồn hàng nông sản organic (bao gồm công tác quy hoạch vùng nguyên liệu, giống cây con, phương thức canh tác, thu hoạch, chế biến…).

Xây dựng thương hiệu sản phẩm và chiến lược phát triển thương hiệu ở các thị trường mục tiêu. Đầu tư dây chuyền công nghệ cho việc chế biến (chế biến sơ và sâu) các sản phẩm bảo đảm yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng, nguồn gốc xuất xứ sản phẩm, không hóa chất, không độc hại. Xác định các yếu tố cần thiết để bảo đảm sản phẩm sau chế biến có thể đạt được các chứng chỉ quốc tế về chất lượng sản phẩm.

Nhà nước cần có cơ chế, chính sách để hỗ trợ việc thực hiện quy trình sản xuất và xuất khẩu nông sản hữu cơ chủ lực, trước hết là cơ chế, chính sách tạo nguồn hàng xuất khẩu. Cụ thể, cần quy hoạch các vùng sản xuất, nuôi trồng tập trung các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trên cơ sở lợi thế cạnh tranh của Việt Nam với thế giới và xu hướng tiêu dùng của thế giới. Việc quy hoạch cần căn cứ vào lợi thế so sánh của các vùng, miền, địa phương; bảo đảm cung cấp đủ nguồn hàng cho sản xuất, chế biến nông sản xuất khẩu ở quy mô sản xuất lớn.

Đặt hàng xây dựng các quy trình chuẩn sản xuất nông sản hữu cơ xuất khẩu chủ lực (đề cập ở phần trên) và chuyển giao quy trình cho doanh nghiệp thực hiện. Tạo điều kiện tích tụ, tập trung ruộng đất ở quy mô lớn (từ hàng trăm đến hàng nghìn ha) cho việc đầu tư nhà máy sản xuất chế biến tập trung, nuôi trồng các loại cây con được xác định là mặt hàng nông sản xuất khẩu hữu cơ chủ lực.

 

Xây dựng các thương hiệu quốc gia

Về cơ chế, chính sách xây dựng thương hiệu nông sản xuất khẩu chủ lực Việt Nam, Nhà nước cần sớm bổ sung hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật Việt Nam đối với hàng hóa nông sản theo hướng phù hợp với các tiêu chuẩn, quy chuẩn thế giới, phát triển và nhân rộng việc thực hiện cấp mã số vùng sản xuất, truy xuất nguồn gốc, chỉ dẫn địa lý... đối với nông sản xuất khẩu chủ lực. Nhân rộng mô hình sản xuất nông sản theo các tiêu chuẩn GlobalGAP, VietGAP, HACCP...

Có chiến lược bài bản xây dựng “Thương hiệu quốc gia” cho nông sản xuất khẩu chủ lực Việt Nam. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định trong việc xuất khẩu nông sản vì hiện nay đây là khâu yếu nhất trong xuất khẩu nông sản, chủ yếu do các doanh nghiệp thực hiện dẫn tới tình trạng mặc dù hàng hóa nông sản Việt Nam có chất lượng tốt, giá cạnh tranh nhưng không được người tiêu dùng quốc tế biết đến, không xuất khẩu được ra thế giới.

Nguyên nhân một phần do doanh nghiệp thiếu kinh phí cho công việc này, mặt khác cách tiếp cận về xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của doanh nghiệp khác cách tiếp cận xây dựng thương hiệu cấp quốc gia. Chẳng hạn trong thời gian vừa qua việc triển khai xây dựng thương hiệu quốc gia GẠO VIỆT NAM/VIETNAM RICE là một việc làm có ý nghĩa lớn cần được nhân rộng cho các nông sản xuất khẩu chủ lực khác.

Việc Nhà nước xây dựng Thương hiệu quốc gia nông sản xuất khẩu chủ lực quốc gia không có nghĩa là Nhà nước bỏ tiền làm thay doanh nghiệp mà Nhà nước cùng với doanh nghiệp phối hợp thực hiện một cách chiến lược, bài bản việc xây dựng thương hiệu quốc gia cho các nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.

 

Cùng với đó, tăng cường quản lý, giám sát chất lượng hàng hóa xuất khẩu theo tiêu chuẩn, quy chuẩn trong nước và thị trường xuất khẩu. Xử lý nghiêm các hành vi gian lận thương mại, vi phạm các quy định về vệ sinh, an toàn thực phẩm, sử dụng tài nguyên thiên nhiên bất hợp pháp, phá hoại môi trường, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh làm mất uy tín nông sản Việt Nam.

Nhà nước sẽ là “bà đỡ”

Về cơ chế, chính sách xúc tiến thương mại, phát triển thị trường, cần huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng các trung tâm logistics ở các địa bàn đầu mối trong nước để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Nghiên cứu việc thành lập các kho ngoại quan, trung tâm logistics ở nước ngoài để hỗ trợ doanh nghiệp tập kết và phân phối hàng hóa đến các thị trường quốc tế với chi phí thấp.

Xây dựng các chương trình quảng bá hình ảnh quốc gia, xúc tiến thương mại quốc gia với các thị trường trọng điểm (có kim ngạch xuất khẩu lớn, dân số đông như Hoa Kỳ, Ấn Độ, EU…) và các thị trường tiềm năng sau khi các hiệp định thương mại tự do được ký kết. Việc triển khai các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia cần tập trung vào từng mặt hàng, từng thị trường, tránh tình trạng dàn trải, thiếu chiều sâu như hiện nay. Nhà nước giao nhiệm vụ cho các cơ quan đại diện ngoại giao, thương vụ Việt Nam ở nước ngoài nhiệm vụ xúc tiến thương mại, chắp mối kinh doanh và có cơ chế, chính sách khuyến khích đối với hoạt động này (chẳng hạn được phép nhận hoa hồng khi tư vấn, chắp mối kinh doanh hiệu quả cho doanh nghiệp).

Hỗ trợ và hướng dẫn doanh nghiệp tận dụng các cơ hội của các Hiệp định Thương mại tự do mang lại, nhất là các Hiệp định vừa ký kết như CPTPP, EVFTA về ưu đãi thuế quan, cơ hội thị trường. Thông tin kịp thời cho doanh nghiệp về các rào cản thương mại, hệ thống quy định tiêu chuẩn, quy chuẩn thị trường nhập khẩu để doanh nghiệp chủ động phòng tránh nguy cơ dẫn đến các vụ điều tra phòng vệ thương mại, các vi phạm về kiểm dịch động thực vật, vệ sinh an toàn thực phẩm tại các thị trường có yêu cầu khắt khe về điều kiện nhập khẩu hàng nông sản.

Cung cấp các dịch vụ công trực tuyến, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất nhập khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và chi phí khi làm thủ tục xuất nhập khẩu.

 

Xây dựng và thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa ”5 nhà”: nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà băng (ngân hàng, các tổ chức tín dụng) và nhà nông trong quá trình sản xuất và xuất khẩu các nông sản hữu cơ chủ lực.

Về phía mình, để nâng cao năng lực, các doanh nghiệp cần đầu tư công nghệ hiện đại để có được các sản phẩm chuẩn quốc tế; thực hiện quy trình sản xuất sản phẩm nông nghiệp hữu cơ và ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm với nông dân; phát triển thương hiệu cho sản phẩm xuất khẩu, phấn đấu đạt các chứng nhận quốc tế; đẩy mạnh xúc tiến bán hàng thông qua các kênh truyền thống và thương mại điện tử…

Với các giải pháp trên, Nhà nước thực hiện đúng vai trò “Chính phủ kiến tạo” hướng dẫn, hỗ trợ, là “bà đỡ” cho doanh nghiệp và các hộ nông dân trong quá trình sản xuất và xuất khẩu nông sản chủ lực Việt Nam. Đầu tư công của nhà nước có hiệu quả hơn, thể hiện qua việc đổi mới cách thức đầu tư vào khoa học công nghệ, công tác quy hoạch, huy động hiệu quả nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội, cải cách hành chính hướng tới hỗ trợ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn.

 
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Xem nhiều nhất

Cột tin quảng cáo

Có thể bạn quan tâm