DNVN - Trong lịch sử người Ai Cập cổ đại đã dùng một loại bột hồ để làm sạch răng vào khoảng 5000 năm trước Công nguyên. Theo ghi chép sử sách, người Hy Lạp và La mã trước công nguyên cũng đã sử dụng kem đánh răng. Người Trung quốc và Ấn Độ bắt đầu sử dụng kem đánh răng vào khoảng 500 năm trước Công nguyên.
- Video lịch sử ra đời của bàn chải, kem đánh răng. Nguồn: Người Thành Công.Kem đánh răng
Không khác nhiều ngày nay, thời cổ đại kem đánh răng được dùng để làm sạch răng miệng, tẩy trắng răng và làm tươi mát hơi thở. Tuy nhiên thành phần của các loại kem đánh răng cổ xưa này rất đa dạng và khác biệt. Những thành phần được sử dụng như tro móng bò, bột vỏ trứng được trộn lẫn với đá bọt. Người Hy Lạp và La Mã lại thích sự đánh trắng nhiều hơn và họ sử dụng cả bột từ xương và vỏ hào trong kem đánh răng của mình. Người La Mã còn thêm các thành phần để trị chứng hôi miệng như bột than đá và vỏ cây. Trong khi đó tại Trung quốc, các thành phần như nhân sâm, bạc hà và muối được sử dụng.
Vào thế kỷ thứ 9, nhạc sĩ Iraq và nhà thiết kế thời trang Ziryab đã phát minh ra một loại kem đánh răng, mà ông đã phổ biến rộng khắp khắp vùng Hồi giáo Tây Ban Nha, thành phần chính xác của kem đánh răng này không rõ ràng, nhưng được báo cáo rằng cả hai "chức năng và hương vị dễ chịu". Không biết liệu kem đánh răng sơ khai này sử dụng đơn nhất hay không, hay được cọ xát vào răng bằng những miếng giẻ rách, hoặc được sử dụng với bàn chải đánh răng sớm như cành cây sầu đâu và miswak. Kem hay bột đánh răng được sử dụng rộng rãi vào thế kỷ 19.
Sự phát triển của kem đánh răng hiện đại bắt đầu vào những năm 1800 sau Công nguyên. Loại kem đánh răng đầu tiên chứa xà phòng và sau đó vào năm 1850 phấn vôi được thêm vào. Tại Anh, vào những năm 1800, người ta còn thêm vào kem đánh răng hạt cây trầu. Theo ghi chép của bách khoa toàn thư, vào những năm 1860, than đá cũng được sử dụng.
Trước năm 1850, kem đánh răng chủ yếu ở dạng bột. Sau đó một loại kem đánh răng chứa trong lọ có tên Crème Dentifrice ra đời và vào năm 1973 Colgate đã sản xuất hàng loạt lọ kem đánh răng. Sau đó vào những năm 1890, Colgate đã cho ra đời tuýp kem đánh răng rất giống với ngày nay. Cho tới tận năm 1945, kem đánh răng vẫn chứa xà phòng. Sau đó, xà phòng được thay thế bởi các thành phần khác để làm bột kem mềm hơn và nhũ tính hơn. Trong đó chất tẩy natri sulphate vẫn còn được sử dụng tới ngày nay.
Vào nửa sau thế kỷ 20, kem đánh răng được nghiên cứu để ngăn ngừa các loại bệnh về răng như bệnh răng nhạy cảm. Kem đánh răng có chứa flo được giới thiệu năm 1914 giúp chống sâu răng. Kem đánh răng ít mài mòn hơn cũng được nghiên cứu phát triển để chống lại các tác dụng không mong muốn cho việc đánh răng quá mạnh.
Những tiến bộ gần đây của kem đánh răng chính là sự phát triển của kem đánh trắng răng và kem đánh răng với Triclosan. Hợp chất này giúp bảo vệ răng khỏi sâu răng, các bệnh về lợi, mảng bám và hơi thở có mùi...
Bàn chải đánh răng
Sự đa dạng về dụng cụ vệ sinh răng miệng đã có trước cả khi lịch sử được ghi lại. Điều này đã được kiểm chứng nhờ rất nhiều những khai quật thành công ở khắp mọi nơi trên thế giới, trong đó que nhai, cành cây, lông chim, xương động vật và lông nhím đã được phát hiện.
Mọi người sử dụng các loại bàn chải đánh răng khác nhau. Y học của Ấn Độ đã sử dụng cây neem (còn gọi là. daatun) và từ đó chế ra một loại bàn chải đánh răng mà nó đã được sử dụng trong nhiều thiên niên kỉ. Người ta nhai phần ngọn của một cành cây neem cho đến khi nó dường như đủ mảnh để làm lông của một bàn chải đánh răng, rồi sau đó sử dụng nó để chải răng. Ở thế giới hồi giáo, miswak, hay siwak, được tạo ra một cành hoặc rễ cây có tính chất khử trùng, đã được sử dụng rộng rãi kể từ thời kỉ hoàng kim của đạo Hồi. Đánh răng bằng soda hoặc bằng phấn cũng đã từng rất phổ biến.
Chiếc bàn chải đánh răng đầu tiên có hình dạng gần giống như ngày nay được tin là đã được tạo ra đầu tiên tại Trung Quốc vào khoảng cuối thập niên năm 1400, nó đã có lông cứng lấy từ cổ lợn, được gắn trên một khúc tre.
William Addis ở Anh được tin là đã tạo ra bàn chải có thể sản xuất hàng loạt đầu tiên vào năm 1780. Năm 1770, ông bị bỏ tù vì tội gây rối trật tự. Trong tù, ông đã quyết định phương pháp đánh răng – chà một miếng giẻ nhỏ vào răng cùng với muối và nhọ nồi(soot). Nên ông lấy một mẩu xương động vật nhỏ, đục vào đó vài cái lỗ nhỏ, xin một vài sợi lông từ người lính gác. Ông buộc chúng lại thành các búi sau đó luồn chúng qua những cái lỗ trên cục xương và dán chúng lại. Ông sớm trở nên ốm yếu. Ông mất vào năm 1808 và để lại công ty cho người con cả, William II.
Bằng sáng chế bàn chải đầu tiên được trao cho H. N. Wadsworth năm 1857 (Bằng sáng chế của MĨ No. 18.653) ở Hoa Kỳ, nhưng dây chuyền sản xuất ở Mĩ lại phải đến năm 1885 mới bắt đầu. Thiết kế nâng cao hơn có tay cầm làm bằng xương với những cái lỗ được khoan và gắn vào lông lợn lòi Xi-Bia. Lông lợn lòi không phải là một vật liệu quá lý tưởng, nó giữ lại vi khuẩn, nó không được khô cho lắm, lông thường tuột khỏi bàn chải. Nó không được sử dụng cho đến Chiến tranh thế giới thứ II, tuy thế, khái niệm về việc đánh răng lại thức sự được năm bắt ở Mĩ, bởi vì nó dường như đã trở thành một phần trách nhiệm của người lính Mĩ để vệ sinh răng của họ. Nó là một bài thực hành mà họ đã mang trở về nhà sau khi chiến tranh kết thúc.
Lông tự nhiên (từ lông động vật) được thay thế bằng sợi tổng hợp, thường là sợi nylon, bởi DuPont năm 1938. Bàn chải sử dụng sợi nylon đầu tiên được bán lần đầu vào ngày 24 tháng 2 năm 1938. Chiếc bàn chải điện đầu tiên, Broxodent, được giới thiệu bởi công ty Bristol-Myers (giờ là Bristol-Myers Squibb) vào năm 1959.
Vào tháng 1 năm 2003, bàn chải đánh răng được chọn đứng vị trí số một trong những phát minh mà không thể thiếu đối với cuộc sống của người Mỹ, vượt qua cả điện thoại di động, máy tính, xe ôtô, và lò vi sóng theo Lemelson-MIT chỉ số phát minh.
Bảo Ngọc (Theo Wikipedia, Người Thành Công)