Khám phá

Điện Biên Phủ: Mỹ gợi ý trao cho Pháp bom nguyên tử?

Vào tháng 4/1954, Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles đã hỏi người đồng nhiệm Pháp Georges Bidault: “Các ngài có muốn sở hữu 2 quả bom nguyên tử không?”.

'Kinh hoàng' cảnh chó hoang 'ăn sống nuốt tươi' linh dương / Cá sấu 'bỏ của chạy lấy người' khi bị hà mã 'trấn lột'

Pháp cầu cứu Mỹ trong nguy cấp

Đó là lời kể của một nhà ngoại giao cấp cao của chính quyền Pháp. Vào 60 năm về trước, quân đội Pháp bị lực lượng Việt Minh đánh bại hoàn toàn ở thung lũng Điện Biên Phủ. Sử gia người Anh Julian Jackson nhận định rằng đây là một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử đối với hai quốc gia. Đặc biệt, trong thời Chiến tranh Lạnh, đây là một trận chiến mà một số nhân vật ở Mỹ đã tính đến trường hợp có khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân.

Việc Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles đã hỏi Ngoại trưởng Pháp Georges Bidault có ý định sở hữu 2 quả bom nguyên tử xuất phát từ tình cảnh khó khăn của quân đội Pháp ở chiến trường Việt Nam. Tại đây, quân Pháp đang chiến đấu chống lại lực lượng Việt Minh do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo ở thung lũng Điện Biên Phủ, thuộc vùng núi tây bắc Việt Nam.

Trong khoảng thời gian 8 năm từ năm 1946 - 1954, quân Pháp đã vô cùng chật vật trong cuộc chiến đẫm máu của họ để cố giữ lấy vị trí của Đế chế Pháp ở vùng Viễn Đông. Tính đến năm 1954, lực lượng Pháp ở Đông Dương có khoảng hơn 55.000 quân.

Những tuần cuối cùng ở Điện Biên Phủ, quân đội Pháp đã rơi vào thế nguy cấp và phải cầu cứu Mỹ.
Đến cuối năm 1953, Tổng tư lệnh quân Pháp - Tướng Navarre đã quyết định lập một tập đoàn cứ điểm vô cùng kiên cố ở lòng chảo Điện Biên Phủ thuộc vùng núi cách Hà Nội 300 km. Xung quanh thung lũng này là nhiều dãy đồi núi với rừng cây. Vị trí này có thể phòng thủ được nếu người Pháp có thể bám chắc các đồi bên trong và liên tục được tiếp tế bằng đường hàng không. Tuy nhiên, người Pháp đã đánh giá thấp khả năng của người Việt trong việc tập trung pháo binh sau các dãy đồi. Quân cách mạng đã huy động hàng ngàn người bao gồm cả dân quân vận chuyển các cỗ trọng pháo lên chiến trường Điện Biên Phủ.

Nhân dịp kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2014), Kiến Thức xin gửi tới độc giả loạt bài viết về sự kiện này với những thông tin phong phú, giàu giá trị tham khảo. Loạt bài sẽ được đăng tải liên tục từ ngày 4/5/2014- 8/5/2014. Kính mời độc giả theo dõi, đón đọc.

Đến ngày 13/3/1954, quân cách mạng Việt Nam đã thực hiện một cuộc tấn công bằng đạn pháo dồn dập trong vòng 2 ngày. Kết quả là bộ đội Việt Nam đã chiếm được 2 quả đồi của tập đoàn cứ điểm và vô hiệu hóa sân bay của Pháp tại khu vực này. Khi này, lực lượng Pháp phòng thủ đã bị cô lập và chiếc thòng lọng ngày càng siết dần quanh cổ họ.

Sự kiện ấy đã khiến quân Pháp lâm vào hoàn cảnh nguy cấp khiến họ buộc phải cầu cứu Mỹ. Những chính khách, nhân vật máu mặt thuộc phái diều hâu nhất bên phía Mỹ khi đó là Phó Tổng thống Richard Nixon và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng quân đội Mỹ Đô đốc Radford. Ngoài ra còn có Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles. Ông Dulles bị ám ảnh về một cuộc thập tự chinh chống lại chủ nghĩa cộng sản. Trong khi đó, Tổng thống Mỹ Eisenhower đã tổ chức một cuộc họp báo vào đầu tháng 4/1954 và đưa ra “học thuyết Domino” khét tiếng của mình. Học thuyết này đề cập đến sự “lây lan” của phong trào XHCN từ quốc gia này sang quốc gia khác.

Vì sao Mỹ không can thiệp vào Điện Biên Phủ?

Ngày 3/4/1954 đã đi vào lịch sử Mỹ như là ngày mà phía Mỹ quyết định sẽ không tham gia vào cuộc chiến tranh của người Pháp ở Việt Nam. Vào ngày hôm đó, Ngoại trưởng Dulles gặp gỡ các nhà lãnh đạo Quốc hội Mỹ - những người này nhất quyết không ủng hộ can thiệp quân sự vào Việt Nam trừ khi Anh cũng tham gia kế hoạch đó. Tổng thống Mỹ Eisenhower đã gửi một bức thư cho Thủ tướng Anh Winston Churchill cảnh báo hậu quả đối với phương Tây nếu như pháo đài bất khả xâm phạm Điện Biên Phủ thất thủ. Cũng vào khoảng thời gian này năm 1954, trong 1 cuộc họp ở Paris, Pháp, Ngoại trưởng Dulles được cho là đưa ra lời đề nghị đầy kinh ngạc là tặng cho Pháp một số vũ khí hạt nhân chiến lược.

 

Trên thực tế, Ngoại trưởng Dulles không bao giờ được phép đưa ra những lời đề nghị như vậy và ít có bằng chứng khẳng định ông đã nói như vậy. Có thể là khi tình hình chiến sự ở Điện Biên Phủ ngày càng lên đến đỉnh điểm, Pháp đang hoảng loạn khi có nguy cơ thất thủ ở Điện Biên Phủ và đã hiểu nhầm ý của Ngoại trưởng Dulles. Hoặc có khả năng là lời nói của Ngoại trưởng Dulles đã bị dịch sai.

“Ông ta không thực sự đưa ra lời đề nghị như vậy. Ông chỉ đưa ra một gợi ý và hỏi một câu. Ông đã nói đến hai từ chết chóc là "bom hạt nhân". Ông Bidault (Ngoại trưởng Pháp năm 1954) lập tức phản ứng như thể ông không coi trọng đề xuất đó”, cựu Ngoại trưởng Pháp Maurice Schumann đã nói vậy trước khi qua đời vào năm 1998.

Theo Giáo sư Fred Logevall công tác tại ĐH Cornell, Ngoại trưởng Dulles “ít nhất đã nói về khả năng dùng vũ khí trên theo cách nói chung chung. Điều đó có nghĩa là người Pháp nghĩ gì về khả năng sử dụng 2 hoặc 3 quả bom hạt nhân chiến lược để đánh vào các vị trí của quân địch”.

Giáo sư Logevall nói, Ngoại trưởng Bidault đã từ chối lời đề nghị đó bởi vì ông biết được rằng, trong trường hợp thả bom hạt nhân, chúng sẽ tiêu diệt được nhiều binh lính Việt Minh nhưng đồng thời cũng hủy diệt luôn cả tập đoàn cứ điểm của Pháp ở Điện Biên Phủ.

Cuối cùng, Mỹ đã không can thiệp, phía Anh cũng từ chối tham gia kế hoạch đó.

 

Những tuần lễ chiến đấu cuối cùng của trận Điện Biên Phủ được đánh giá là địa ngục đối với binh sĩ Pháp. Đất biến thành bùn do mưa nhiệt đới gió mùa gây ra. Binh lính Pháp đã cố bám trụ lấy các hố bom và rãnh hào khiến người ta liên tưởng, nhớ lại trận chiến Verdon năm 1916. Đến ngày 7/5/1954, sau cuộc vây hãm kéo dài 56 ngày của quân cách mạng, quân đội Pháp đã phải đầu hàng. Theo ước tính, tổng cộng quân đội Pháp có 1.142 binh lính tử trận, 1.606 người mất tích và 4.500 người bị thương nặng.

 
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo

Có thể bạn quan tâm