Một phân tích của các nhà khoa học từ Oceans Initiative ở Mỹ, Viện Khoa học và Công nghệ Công nghiệp Tiên tiến Quốc gia (AIST) ở Nhật Bản, Đại học Curtin ở Úc và Đại học Hawaii, được công bố trên tạp chí Science, đã phát hiện ra rằng tiếng ồn chỉ từ một mỏ khai thác có thể đi 500 km (hơn 300 dặm) dưới đại dương trong điều kiện thời tiết thuận lợi.
17 nhà thầu có giấy phép thăm dò đang xem xét khả năng khai thác Khu vực Clarion-Clipperton (CCZ), một khu vực trải dài 4,5 triệu km vuông giữa Mexico và Hawaii, nơi có các mỏ khoáng chất dồi dào.
Do đó các nhà khoa học ước tính tác động của tiếng ồn nếu mỗi công ty khai thác này khai thác một mỏ ở CCZ. Họ phát hiện ra rằng mức độ tiếng ồn trong bán kính 4-6 km tính từ mỗi mỏ có thể vượt quá ngưỡng do Cơ quan Thủy sản Biển Quốc gia Hoa Kỳ đặt ra, trên ngưỡng này tiếng ồn có nguy cơ ảnh hưởng đến hành vi của các loài động vật có vú ở biển.
Các loài động vật có vú biển, được biết là nhạy cảm với tiếng ồn, được tìm thấy trên khắp CCZ, bao gồm cả cá voi sừng tấm di cư đang có nguy cơ tuyệt chủng và cá voi có răng lặn sâu. Nhiều loài sinh vật biển sâu - nhiều loài chưa được biết đến - được cho là sử dụng âm thanh và rung động để điều hướng, giao tiếp và phát hiện những kẻ săn mồi trong điều kiện không có ánh sáng mặt trời. Các tác giả của bài báo được tài trợ bởi Quỹ từ thiện Pew cho biết tiếng ồn dưới nước có khả năng “phá vỡ hệ sinh thái”.
Travis Washburn, một nhà sinh thái học biển sâu tại AIST cho biết: “Các vùng biển sâu tiềm ẩn hàng triệu loài chưa được xác định và các quá trình ở đó cho phép sự sống trên Trái đất tồn tại”. Vẫn còn nhiều việc phải làm về tác động của tiếng ồn, nhưng hiện nay vẫn còn cơ hội để hiểu và giảm thiểu chúng trước khi chúng xảy ra.
Theo báo cáo, tác động của ô nhiễm tiếng ồn do khai thác dưới đáy biển sâu là “chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng và bị bỏ qua”.
Đảo Nauru ở Thái Bình Dương cho biết họ có kế hoạch bắt đầu khai thác dưới đáy biển sâu và viện dẫn một quy tắc của Liên Hợp Quốc cách đây hai năm có thể buộc ISA phải hoàn thành các quy định cho phép khai thác dưới biển sâu vào tháng Bảy. Nghiên cứu mới đăng trên Science nói trên đưa ra những lo ngại tương tự như nhiều khuyến nghị đã đưa ra trước đây, rằng khoa học và quản lý khai thác dưới đáy biển sâu vẫn chưa đầy đủ.
Báo cáo cho biết nếu vẫn quyết định khai thác mà không có các tiêu chuẩn nghiêm ngặt và minh bạch “sẽ là sự khởi đầu của một thử nghiệm quy mô lớn, không được kiểm soát”. Các tác giả kêu gọi ISA sử dụng “nguyên tắc phòng ngừa” và trong trường hợp khai thác dưới đáy biển sâu, hãy đảm bảo chỉ một hoặc hai mỏ cùng hoạt động tại một thời điểm cho đến khi hiểu rõ tác động của ô nhiễm tiếng ồn.
Phân tích của họ sử dụng mức độ tiếng ồn được tạo ra bởi các quy trình công nghiệp hiện có, chẳng hạn như nạo vét, thăm dò dầu khí, tạo các tiếng ồn "thử nghiệm" đại diện cho tiếng ồn từ việc khai thác dưới biển sâu. Các phát hiện cho thấy rằng nếu tất cả 17 nhà thầu mỗi nhà thầu vận hành một mỏ, mỗi nhà thầu sẽ gây ra mức độ tiếng ồn cao trên một khu vực rộng 5,5 triệu km vuông.
Craig Smith, đồng tác giả và giáo sư danh dự về hải dương học tại Đại học Hawaii, cho biết: “Nếu mô hình của chúng tôi là chính xác, nó có thể đặt ra yêu cầu xem xét lại các quy định về môi trường, bao gồm số lượng hoạt động khai thác được phép trong Khu vực Clarion-Clipperton.”
Các công ty hiện đang được yêu cầu nghiên cứu các khu vực đề xuất khai thác và so sánh chúng với các khu vực kiểm soát trong địa điểm, nơi sẽ không diễn ra khai thác. Đây được gọi là các "khu vực tham chiếu". Mỗi nhà thầu có tới 75.000 km vuông.
Smith cho biết: “Các mô hình của chúng tôi gợi ý rằng không nơi nào trong toàn bộ 75.000 km vuông không bị ảnh hưởng bởi tiếng ồn. Có thể sẽ cần thay đổi các quy định".
"Chúng tôi chưa thể thực hiện các nghiên cứu, nhưng nếu các hoạt động khai thác diễn ra đồng thời, nó có thể có tác động lớn đến toàn bộ các sinh vật."
Các tác giả, những người không thể tìm thấy dữ liệu đã được bình duyệt về mức độ tiếng ồn của một vài cỗ máy vận hành dưới biển sâu, cũng kêu gọi sự minh bạch. “Chúng tôi kêu gọi các nhà thầu công bố thông tin kịp thời về đặc điểm nguồn âm của tất cả các thành phần khai thác dưới đáy biển,” họ viết trong báo cáo.
Theo Phạm Nhật/Khoa học & Phát triển