Khám phá

Vì sao Liên Xô từ bỏ tàu ngầm tốc độ cao?

Tháng 12/1970, chiếc tàu ngầm hạt nhân thử nghiệm của Liên Xô thuộc Dự án 661 Anchar đã đạt tốc độ di chuyển tối đa khi lặn tới 44,7 hải lý/giờ, tương đương 82,78km/giờ.

Điệp viên “James Bond” siêu hạng của Liên Xô từng khiến châu Âu rúng động như thế nào? / KGB với đại án tham nhũng của Bộ Thủy sản Liên Xô

Với ưu thế tốc độ di chuyển rất cao, vỏ tàu bằng titan, chiếc tầu ngầm này đã lập kỷ lục thế giới về tốc độ mà cho đến nay chưa có loại tàu ngầm nào đạt được. Tuy nhiên, dù các cuộc chạy thử thành công, loại tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân không được sản xuất hàng loạt và chỉ có một chiếc tàu duy nhất. Tại sao Hải quân Liên Xô từ bỏ dự án tàu ngầm cao tốc?

Công nghệ của tương lai

Dự án 661 đã được khởi động vào cuối những năm 1950 trên thực tế từ con số 0, vì tàu ngầm loại này được cho là sẽ mở một chương mới trong lịch sử ngành đóng tàu ngầm.

Khi dự án khởi động, các nhà thiết kế không được phép sử dụng các công nghệ tàu ngầm trước đó, buộc họ phải nghĩ ra hàng loạt công nghệ tiên tiến cho Dự án 661. Trước hết vì thân tàu được làm bằng titan.

Tàu ngầm hạt nhân dự án 661 lớp Anchar.

Theo chuyên gia Radiy Shmakov, tổng công trình sư thiết kế ra nhiều tàu ngầm, Titanium có tính chất phi từ tính, nó không bị ăn mòn, trọng lượng Titanium nhẹ chỉ bằng 50% trọng lượng thép. Với cùng độ dày, thân tàu bằng titan là nhẹ hơn nhiều. Trên thực tế, các chuyên gia đã có ý định tạo ra “con thuyền vĩnh cửu”.

Nhưng, hợp kim đầu tiên hóa ra không thành công vì khi đó các chuyên gia thiếu kinh nghiệm. Trên lớp vỏ đã xuất hiện những vết nứt. Do đó, giới hạn lặn của tàu ngầm bị hạn chế. Sau đó, các tàu ngầm bằng titan không có vấn đề như vậy, các chuyên gia đã rút kinh nghiệm và giải quyết vấn đề này.

Thứ hai, tàu ngầm Anchar đã được chế tạo theo sơ đồ hai thân, các tấm titan được hàn trong môi trường không có oxy. Thân tàu nhẹ có hình trụ, hai cánh quạt bố trí cách nhau 5 mét được lắp ở đuôi tàu. Trên mũi tàu có hai khoang. Chiếc tàu ngầm cao 107 mét có chín khoang biệt lập. Thủy thủ đoàn gồm 80 người.

Thứ ba, các thiết bị tiên tiến nhất lúc bấy giờ đã được lắp đặt trên tàu ngầm, nhiều thành phần và hệ thống lần đầu tiên được thử nghiệm trên biển. Ví dụ, khu phức hợp viễn thông và cáp quang. Một số thiết bị được tự động hóa hoàn toàn, tàu ngầm có khả năng hoạt động độc lập trong thời gian 70 ngày.

Thứ tư, tàu ngầm đã được tạo ra như "thợ săn hàng không mẫu hạm", do đó, nó được trang bị các loại vũ khí đặc biệt. Trong mũi tàu có các tên lửa chống hạm Amethyst và bốn ống phóng lôi 533 mm. Tên lửa được phóng từ độ sâu 30 m và có tầm bắn xa tới 70 km. Anchar có khả năng thực hiện hai đợt phóng mạnh trong khoảng thời gian ba phút.

 

Vì dự án này là rất phức tạp, quá trình chế tạo chiếc tàu ngầm hạt nhân đã kéo dài 10 năm. Vì thế tới tháng 1-1970, tàu ngầm Anchar mới được đưa vào biên chế Hạm đội Phương Bắc.

Chi phi đắt đỏ khiến dự án 661 được đặt biệt danh là "Cá vàng".

Tàu ngầm tấn công

Ngày 18/12/1970, cuộc chạy thử trên biển đã đạt kết quả rất đáng khích lệ. Ở độ sâu 100 m, thủy thủ đoàn đã tắt chế độ bảo vệ khẩn cấp của các tuabin để chúng tiếp tục hoạt động ngay cả trong chế độ giới hạn. Với công suất của lò phản ứng hạt nhân ở mức 97%, chiếc tàu ngầm đã tăng tốc lên 44,7 hải lý/giờ (hơn 82 km/giờ), mặc dù theo thiết kế kỹ thuật, tốc độ tối đa là 38 hải lý/giờ.

Cho đến nay, Anchar do Liên Xô sản xuất vẫn giữ kỷ lục thế giới về tốc độ di chuyển khi lặn. Tốc độ tối đa của các tàu ngầm hiện đại chạy bằng năng lượng hạt nhân là 35 hải lý/giờ. Nhưng, tốc độ rất cao của Anchar có tác dụng phụ.

Tiếng ồn trong khoang trung tâm lên tới 100 decibel, các thủy thủ không thể chịu nổi khi liên tục ở trong điều kiện như vậy. Dòng chảy hỗn loạn dọc theo hai bên tàu đã tạo ra tiếng ồn gần như tiếng máy bay, và con tàu mất đi lợi thế chính là khả năng tàng hình. Do quá tải, dòng nước chảy tới đè bẹp thân tàu ở một số nơi, cửa khoang điều khiển bay ra ngoài.

 

Tuy nhiên, Bộ Tư lệnh Hải quân Liên Xô rất thích chiếc tàu ngầm tốc độ cao. Sự vượt trội đáng kể về tốc độ cho phép Anchar di chuyển rất nhanh để bắn tên lửa hành trình và né tránh các cuộc tấn công bằng ngư lôi của đối phương.

Ngư lôi được đưa lên tàu ngầm.

Sau cuộc chạy thử trên biển, chiếc tàu đã được sửa chữa và lại ra khơi. Vào tháng 3/1971, thủy thủ đoàn của Anchar dự định thiết lập một kỷ lục mới về tốc độ, khởi động lò phản ứng đầy đủ công suất lên 100% (đây là sự điên rồ hoàn toàn), nhưng, tàu ngầm chỉ lặp lại thành tích trước đó.

Cùng năm, Anchar đã tham gia "các cuộc đua sinh tồn" ở Đại Tây Dương. Chiếc tàu ngầm Liên Xô đã phát hiện tàu sân bay USS Saratoga và theo đúng nghĩa đen "bám đuôi tàu sân bay Mỹ". Người Mỹ đã cố gắng hết sức để thoát ra khỏi chiếc tàu ngầm mà họ không thể xác định được, nhưng vô ích. Chỉ sự cố hỏng trục các đăng đã buộc thủy thủ đoàn của Anchar phải ngừng truy đuổi và về căn cứ.

Những vấn đề và kinh nghiệm

K-162 Anchar là tàu ngầm đầu tiên trên thế giới sử dụng vỏ hoàn toàn bằng titan. Nó được trang bị 10 ống phóng chứa tên lửa hành trình chống hạm P-70 Ametist với tầm bắn 65 km, cùng 12 ngư lôi cỡ 533 mm. Sau khi bắn hết tên lửa, tàu buộc phải trở về cảng để nạp đạn, quy trình này không thể tiến hành ngoài khơi như nhiều tàu ngầm khác trong biên chế Liên Xô.

 

Theo kế hoạch, Hải quân Liên Xô phải nhận 10 tàu ngầm như vậy. Nhưng, chi phí chế tạo Anchar quá đắt đỏ, gần 2 tỷ rúp Liên Xô (tương đương 246 tỷ 280 triệu rúp Nga, hay 3 tỷ 365 triệu 170 nghìn USD). Liên Xô đã cấp phát nhiều kinh phí ngân sách cho nhu cầu quốc phòng, nhưng chi phí cao như vậy không thể chấp nhận được. Chi phi đắt đỏ khiến Dự án 661 được đặt biệt danh là "Cá vàng".

Nhược điểm lớn nhất của tàu ngầm dự án 661 là ở tốc độ tối đa nó tạo ra tiếng ồn 100 decibel, khiến rất dễ bị phát hiện.

Ngoài ra, quá trình vận hành thử nghiệm đã bộc lộ những thiếu sót nghiêm trọng của hệ thống tên lửa, nhiều nhược điểm trong thiết bị trên tàu, mức độ tin cậy kém và khó bảo trì. Các chuyên gia đã rút ra kết luận rằng, các công việc hiện đại hóa là không hợp lý. Chiếc tàu ngầm này không bao giờ được sản xuất hàng loạt, nhưng kinh nghiệm thu được trong quá trình chế tạo nó rất hữu ích trong việc thiết kế tàu ngầm thế hệ tiếp theo.

Trong 20 năm sử dụng, chiếc Anchar hầu như liên tục neo đậu tại căn cứ hải quân hoặc được sửa chữa tại ụ tàu. Chiếc tàu này biến thành "chuột thí nghiệm" trao tặng cho hạm đội và các nhà đóng tàu nhiều giải pháp kỹ thuật mới để thiết kế các thế hệ tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân tiếp theo.

Năm 1985, chiếc tàu ngầm cũ nát đã neo đậu tại cầu cảng và hiện diện ở đó cho đến năm 2010, sau đó nó bị cắt ra lấy sắt vụn. Tuy nhiên, nhiều công nghệ của nó đã được ứng dụng trên các tàu ngầm tấn công Đề án 705 "Lira", Đề án 670 "Skat" và Đề án 945 "Barrakuda" của Nga sau này.

 
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo

Có thể bạn quan tâm