Khoa học - Công nghệ

Ô nhiễm không khí làm tăng tỷ lệ sa sút trí tuệ

DNVN - Trong một bài báo gần đây được đăng trên Tạp chí Y học Anh (BMJ) , các nhà nghiên cứu tại Trường Y tế Công cộng Harvard TH Chan cho thấy mối liên quan giữa các chất gây ô nhiễm không khí, đặc biệt là bụi mịn PM 2,5 đối với chứng sa sút trí tuệ.

Khởi công xây dựng nhà máy hydro xanh đầu tiên tại Việt Nam / Tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách về khoa học và công nghệ

Nghiên cứu đã trình bày kết quả của một đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp cho thấy mối liên hệ giữa các chất gây ô nhiễm không khí, đặc biệt là hạt vật chất 2,5 (PM 2,5 ) và sa sút trí tuệ lâm sàng. PM 2.5 là các hạt/giọt không khí mịn có chiều rộng từ hai micron rưỡi trở xuống.

Hơn 57 triệu người trên toàn cầu đang sống chung với chứng sa sút trí tuệ. Các ước tính cho thấy sự gia tăng không thể kiểm soát các trường hợp sa sút trí tuệ trên toàn thế giới, với con số dự kiến ​​sẽ tăng lên 153 triệu vào năm 2050. Có đủ bằng chứng cho thấy gần 40% các trường hợp này phát sinh do các yếu tố rủi ro có thể thay đổi được, chẳng hạn như tiếp xúc lâu dài với ô nhiễm không khí xung quanh .

Thật vậy, đây là một chủ đề sức khỏe cực kỳ quan trọng và là ưu tiên nghiên cứu. Theo đó, trong thập kỷ qua, các nghiên cứu đánh giá mối liên quan giữa ô nhiễm không khí xung quanh và chứng sa sút trí tuệ đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, họ đã sử dụng các phương pháp khác nhau để định lượng mối liên hệ giữa việc tiếp xúc lâu dài với các chất gây ô nhiễm không khí và sự gia tăng các trường hợp sa sút trí tuệ.

Ảnh minh họa. Nguồn: Fran_kie / Shutterstock

Nhìn chung, vẫn còn thiếu các đánh giá có hệ thống có thể mang lại kết quả khả thi mà các cơ quan quản lý và bác sĩ lâm sàng có thể sử dụng để hướng dẫn bệnh nhân và công chúng về nguy cơ sa sút trí tuệ do ô nhiễm không khí gia tăng.

Trong nghiên cứu hiện tại, các nhà nghiên cứu đã quét hơn 2.080 nghiên cứu từ cơ sở dữ liệu, chẳng hạn như PubMed, Web of Science và EMBASE, từ xưa cho đến tháng 7/2022. Tất cả những nghiên cứu này đều xem xét các chất gây ô nhiễm không khí và các giải pháp thay thế ô nhiễm giao thông đáp ứng tiêu chí của cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ, có người lớn (≥18 tuổi) tham gia và thực hiện theo dõi dọc.

Quan trọng hơn, những nghiên cứu này đã tính trung bình mức độ tiếp xúc với các chất ô nhiễm không khí này trong hơn một năm để chỉ ra mối quan hệ giữa các chất ô nhiễm không khí xung quanh và chứng mất trí nhớ lâm sàng.

Ngoài ra, hai tác giả độc lập đã đánh giá nguy cơ sai lệch tiềm ẩn trong các nghiên cứu môi trường được đưa vào bằng cách sử dụng công cụ Rủi ro sai lệch trong các nghiên cứu về phơi nhiễm không ngẫu nhiên (ROBINS-E), giải quyết những sai lệch này sâu hơn so với các phương pháp trước đây, điều này có thể ảnh hưởng đến việc giải thích kết quả cuối cùng.

Một đặc điểm nổi bật khác của phân tích tổng hợp này là nó đã sử dụng phương pháp xác định trường hợp đang hoạt động. Phương pháp này cho phép sàng lọc toàn bộ dân số nghiên cứu về chứng sa sút trí tuệ ở những người không mắc bệnh này lúc ban đầu. Cuối cùng, nhóm đã sử dụng sai số chuẩn Knapp-Hartung để thực hiện phân tích tổng hợp khi tối thiểu ba nghiên cứu về một chất gây ô nhiễm không khí nhất định sử dụng các phương pháp tương tự.

Nhóm các nhà khoa học đã xác định 51 nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa ô nhiễm không khí xung quanh và chứng sa sút trí tuệ, tất cả đều được công bố trong thập kỷ qua. Tuy nhiên, họ chỉ sử dụng 16 trong các phân tích tổng hợp sau khi sàng lọc qua công cụ ROBINS-E. Trong số 14 nghiên cứu về PM 2.5 , 7 nghiên cứu được sử dụng xác định trường hợp đang hoạt động và 7, 6 và 1 lần lượt đến từ Bắc Mỹ, Châu Âu và Hồng Kông (Trung Quốc).

Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy bằng chứng đầy đủ về mối quan hệ giữa PM 2,5 và chứng sa sút trí tuệ lâm sàng, ngay cả ở những khu vực có mức phơi nhiễm hàng năm thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn hàng năm theo quy định hiện hành của Liên minh châu Âu là 12μg/m3. Cứ mỗi 2 đến 3 μg/m3 mức độ tiếp xúc trung bình hàng năm với PM 2,5 làm tăng 17% nguy cơ mắc chứng mất trí nhớ, đặc biệt là trong số các nghiên cứu sử dụng phương pháp xác định trường hợp tích cực.

Dựa trên các nghiên cứu với xác định trường hợp tích cực, các nhà nghiên cứu đã đưa ra các ước tính tốt nhất. Theo đó, ước tính tốt nhất về tác động của nồng độ PM 2,5 cao hơn 2 μg/m 3 là tỷ lệ nguy hiểm (HR) đạt 1,42. Tuy nhiên, với xu hướng thời gian sai lệch, một ước tính thận trọng hơn là 1,17. Giới hạn độ tin cậy quá rộng đối với cả hai ước tính. Vì vậy, những phát hiện này cần phải được giải thích một cách thận trọng.

Hơn nữa, các tác giả đã tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ giữa mức độ sa sút trí tuệ và nitơ oxit (NOx) cũng như nitơ dioxide (NO2 ), mặc dù dữ liệu còn hạn chế. Họ đã xác định mức tăng rủi ro lần lượt là 5% và 2% đối với mỗi 10 μg/m3 mức độ phơi nhiễm hàng năm với NO2 .

Hơn nữa, các tác giả lưu ý rằng mối quan hệ dự kiến ​​của ô nhiễm không khí với nguy cơ mất trí nhớ tương đối thấp hơn so với các yếu tố rủi ro khác, chẳng hạn như hút thuốc. Tuy nhiên, vì ngày càng có nhiều người tiếp xúc với ô nhiễm không khí nên tác động của nó đối với sức khỏe con người có thể là đáng kể ở quy mô lớn.

Các kết quả đánh giá hiện tại cho thấy rằng việc tiếp xúc với PM 2,5 xung quanh làm tăng tỷ lệ sa sút trí tuệ và có khả năng là NO2 và NOx; tuy nhiên, dữ liệu cho NOx bị hạn chế. Dù vậy, những kết quả này củng cố bằng chứng cho thấy ô nhiễm không khí là một trong những yếu tố rủi ro có thể thay đổi quan trọng nhất đối với chứng mất trí lâm sàng.

Do đó, các nỗ lực giảm thiểu để giảm tiếp xúc với ô nhiễm không khí có thể giúp giảm gánh nặng của chứng mất trí nhớ. Đối với điều này, các bác sĩ lâm sàng cần truyền đạt các biện pháp mà bệnh nhân có thể thực hiện để giảm phơi nhiễm ở mức độ cá nhân. Quan trọng hơn, các cơ quan quản lý nên thực hiện các bước ở cấp độ chính sách để có kết quả tốt nhất.

Tuấn Lê (Theo News-medical)
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo

Có thể bạn quan tâm