“Báo động đỏ” mức độ nhiễm Salmonella trong thực phẩm
Khuyến khích nông nghiệp thông minh trong phát triển đô thị / Siemens cung cấp thiết bị và giải pháp kỹ thuật phát triển điện gió cho Việt Nam
Vệ sinh an toàn thực phẩm hiện đang là vấn đề nhức nhối trên phạm vi toàn cầu trong đó có Việt Nam ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng. Trong đó, Salmonella spp được giới khoa học nhận định một trong những tác nhân gây ngộ độc thực phẩm phổ biến nhất trên thế giới, với hàng triệu ca nhiễm hằng năm, dẫn đến hàng trăm ngàn trường hợp tử vong.
Mặt khác, sự gia tăng về mức độ kháng kháng sinh của Salmonella spp có mặt trong thực phẩm là một vấn đề quan ngại trên toàn cầu trong những thập kỷ gần đây bởi sự lạm dụng kháng sinh trong điều trị trên cơ thể người và trong ngành chăn nuôi.
Vừa qua, một nhóm chuyên gia đang công tác tại Trung tâm Dịch vụ Phân tích Thí nghiệm TP Hồ Chí Minh đã chủ động triển khai nhiệm vụ khoa học công nghệ “Khảo sát mức độ nhiễm vi sinh vật và đánh giá khả năng kháng kháng sinh của Salmonella spp trong thực phẩm tại khu vực TP Hồ Chí Minh”, hỗ trợ công tác kiểm soát, ô nhiễm thực phẩm và sử dụng kháng sinh hợp lý trong điều trị và chăn nuôi.
Theo đó, nhóm nghiên cứu do ThS. Trương Huỳnh Anh Vũ phụ trách đã tiến hành thử nghiệm khả năng nhạy với kháng sinh của 150 chủng Salmonella spp (được phân lập từ mẫu thực phẩm) với 11 loại kháng sinh, xác định hàm lượng ức chế tối thiểu (MIC) của kháng sinh lên Salmonella spp, từ đó xác định được số lượng Salmonella spp. kháng và đa kháng kháng sinh.
Tiếp đó, sau khi thu nhận và tuyển chọn các chủng c spp có kiểu hình kháng và đa kháng, nhóm nghiên cứu đã phát hiện gene kháng khánh sinh và các integron nhóm 1, 2 và 3 đối với Salmonella spp. có kiểu hình đa kháng bằng kỹ thuật multiplex PCR.
Hình ảnh nhạy với kháng sinh của các chủng Salmonella spp..
Nhóm nghiên cứu đã xác định các đặc điểm phân tử liên quan đến cơ chế đa kháng kháng sinh của các serovar Salmonella phân lập từ thực phẩm như sự hiện diện của các nhóm integron, các gen kháng kháng sinh, hệ thống các kênh bơm ngược thải kháng sinh, đồng thời xác định được cấu trúc của integron nhóm 1 cùng với các vùng gene cassette mã hóa cho các enzyme và nhiều hệ thống kênh bơm ngược thải kháng sinh tham gia vào cơ chế đa kháng.
Đặc biệt, nhóm nghiên cứu ghi nhận tính đa kháng của các serovar có liên quan đến yếu tố di truyền chuyển vị là Tn21 mã hóa Urf2 mà hiện nay chưa có công trình nghiên cứu nào thông tin hay mô tả chi tiết chức năng hoạt động của chúng. Bên cạnh đó, nhóm còn xây dựng hoàn thiện quy trình phát hiện một số gene kháng kháng sinh nhóm beta-lactam phổ rộng (blaTEM, blaSHV, blaCTX) của Salmonella spp với nhiệt độ gắn mồi là 54oC; bắt cặp đặc hiệu với DNA các chủng đích; độ nhạy phát hiện ở nồng độ DNA 0,2-0,4 µg/ml.
TS. Nguyễn Đỗ Phúc, thành viên Hội đồng nghiệm thu nhiệm vụ khoa học công nghệ nói trên vừa được Sở Khoa học và Công nghệ (KH-CN) TP Hồ Chí Minh tổ chức hồi cuối tháng 9/2021, cho rằng Salmonella spp là vi khuẩn không được phép có mặt trong thực phẩm, do đó cần tiếp tục làm rõ Salmonella spp trong loại mẫu thịt nào là phổ biến, đặc biệt là những mẫu đã chế biến có thể sử dụng ngay bởi vì đây là những mối nguy hiểm cực lớn cho người dân.
"Số liệu báo cáo của nhiệm vụ là rất hữu ích, giúp cơ quan quản lý Nhà nước nhìn nhận lại các khâu trong sản xuất, lưu thông và thương mại trên thị trường để có biện pháp giám sát đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm", TS. Phúc nhận xét.
Nhóm nghiên cứu cho biết, từ tháng 9/2019 đến tháng 12/2020, nhóm nghiên thu thập ngẫu nhiên 2.940 mẫu thực phẩm (cả thực phẩm tươi sống và sản phẩm đã qua chế biến) ở 48 chợ truyền thống (2.680 mẫu) và 5 siêu thị (260 mẫu) trên địa bàn TP Hồ Chí Minh. Thực hiện quy trình phân tích định tính các chỉ tiêu vi sinh bằng kỹ thuật PCR, nhóm nghiên cứu phát hiện có đến 356/2.680 mẫu nhiễm Salmonella spp. tại chợ truyền thống (tỷ lệ 13,28%); 14/260 mẫu tại siêu thị có nhiễm Salmonella spp. (tỷ lệ 5,38%). Trong số này, nhóm mẫu thịt và sản phẩm từ thịt chiếm tỷ lệ nhiễm cao nhất, đến 34,93% (234/670) tại chợ và 15,38% (10/65) tại siêu thị. Tiếp theo là nhóm mẫu thủy hải sản và sản phẩm từ thủy hải sản, tỷ lệ là 18,06% (121/670) tại chợ và 6,15% (4/65) tại siêu thị. Nhóm mẫu rau củ quả chiếm tỷ lệ thấp nhất với 0,15% (1/670) nhưng chỉ phát hiện ở mẫu lấy tại chợ. Chưa ghi nhận trường hợp nào có nhiễm Salmonella spp. đối với nhóm trứng và sản phẩm từ trứng. Đại diện Sở KH-CN TP Hồ Chí Minh cho biết, thời gian tới sẽ đẩy mạnh hỗ trợ nghiên cứu triển khai các phương pháp phân tích nhanh tại chỗ có độ nhạy, chính xác cao để phát hiện kịp thời các chất cấm, độc tố, tồn dư kháng sinh và vi sinh vật chỉ thị nhằm rút ngắn thời gian cho kết quả kiểm nghiệm, làm cơ sở cho cơ quan chức năng quyết định xử lý kịp thời, hạn chế nguy cơ thực phẩm bẩn vẫn tiếp tục lưu thông hoặc bị phân phối đến người tiêu dùng trong thời gian chờ kết quả kiểm nghiệm. |
End of content
Không có tin nào tiếp theo