Doanh nghiệp tư nhân 'tiếp lửa' cho khoa học bằng Quỹ tài trợ phi lợi nhuận
Thủ tục nhanh chóng tạo cảm hứng cho đam mê khoa học
Tiến sỹ Vũ Thành Tự Anh – Giám đốc Nghiên cứu của Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright tại TP. HCM, vừa có dự án được nhận tài trợ từ Quỹ Đổi mới sáng tạo Vingroup (VINIF) với số tiền khoảng hơn 10 tỷ đồng. Số tiền này để TS Vũ Thành Tự Anh và nhóm nghiên cứu hiện thực hóa việc sử dụng dữ liệu lớn nhằm tối ưu hóa, tăng tính kết nối, giảm chi phí cho giao thông ở TP. HCM.
Con số hơn 10 tỷ đồng cho một dự án được giới chuyên môn đánh giá là không nhỏ, nhưng thời gian nhận hồ sơ và xét duyệt chỉ trong vòng 3 tháng, khiến vị tiến sĩ từng đi xin tài trợ dự án nhiều năm qua đầy bất ngờ. “Tôi rất ngạc nhiên về cách làm việc của Ban quản lý Quỹ VINIF, nó giống như những người đồng nghiệp hỗ trợ cho nhau, tạo mọi điều kiện để các đơn vị nhận được tài trợ”, TS Vũ Thành Tự Anh nói và cho rằng việc phê duyệt dự án nhanh giúp cho chủ nhiệm đề tài được tiếp lửa đam mê.
Cả thủ tục và nguồn kinh phí tài trợ sẽ “giúp các nhà khoa học hiện thực hóa được các ý tưởng nghiên cứu, có cơ sở để đi tiếp các bước đã đi và đạt đến đỉnh cao, có điều kiện để đạt đẳng cấp ngang tầm thế giới. Tôi tin rằng đây là khát vọng của nhiều nhà khoa học”, ông Tự Anh nhấn mạnh.
Thực tế đây chỉ là một trong số 20 dự án được phê duyệt và nhận tài trợ trong đợt này, sau một năm sau Quỹ VINIF tuyến bố ra mắt, tổng số tiền lên tới 124 tỷ đồng. Theo Giáo sư Vũ Hà Văn – Giám đốc Khoa học Quỹ VINIF, mục tiêu của Quỹ là khuyến khích sự phát triển khoa học và công nghệ cho Việt Nam dựa trên nguyên tắc hoạt động phi lợi nhuận. Các tài sản mua sắm và hình thành từ dự án như sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ cùng các kết quả dự án khác hoàn toàn thuộc về chủ nhiệm dự án, nhóm nghiên cứu hoặc tổ chức chủ trì. Sản phẩm thương mại hóa được hay không tùy theo chủ nhiệm đề tài, tuy nhiên ngay từ đầu khi trao đổi với các chủ nhiệm đề tài, hội đồng khoa học đều đặt câu hỏi, sau 2-3 năm đề tài sẽ đạt được kết quả gì và thực tế họ đều đã có hình dung sản phẩm đến cuối cùng ứng dụng vào xã hội.
“Khi tài trợ cho các đề tài chúng tôi đều hướng tới sẽ còn pha tiếp theo chứ không chỉ dừng lại nghiệm thu là hết”, GS Vũ Hà Văn nói và cho biết cách làm này cũng là giúp các nhà khoa học có thể đi đến cùng với đam mê nghiên cứu của mình. Ngay cả khi dự án không thành công như mong đợi thì đây cũng giống như một khoản đầu tư mạo hiểm, đặt niềm tin vào tinh thần trách nhiệm, tình yêu khoa học để các nhà khoa học làm ra sản phẩm.
Cũng với tinh thần này, Quỹ tài trợ nghiên cứu ứng dụng VinTech (VinTech Fund) lại tạo cơ hội để nhà khoa học mang một sản phẩm từ giai đoạn nghiên cứu đến giai đoạn ra thị trường thông qua hệ sinh thái các hoạt động hỗ trợ. Ở Quỹ VinTech Fund, khi tham gia, nhà khoa học nhận được cơ hội thử nghiệm, thực nghiệm với số tiền lên đến 10 tỷ đồng cho một dự án.
Bà Trương Lý Hoàng Phi – Tổng giám đốc Vintech City cho biết, chương trình ưu tiên cho các đề tài nghiên cứu đến từ 54 trường đại học, các Viện nghiên cứu tại Việt Nam cũng như khuyến khích tính hợp tác, liên kết, chia sẻ nguồn lực của lực lượng các nhà khoa học, nhà sáng chế, chuyên gia công nghệ, thậm chí là các startup công nghệ người Việt trên toàn cầu với các trường đại học tại Việt Nam để cùng tham gia.
Đầu tư cho khoa học xuất phát từ tiếng nói thị trường
“Đầu tư của các doanh nghiệp cho khoa học, công nghệ, giáo dục là một xu hướng đáng hoan nghênh và mới ở Việt Nam”, PGS - TS Nguyễn Ái Việt, nguyên Viện trưởng Viện Công nghệ Thông tin, Đại học Quốc gia Hà Nội đánh giá. Tuy nhiên ông Việt cho rằng, còn sớm để kết luận việc đầu tư của doanh nghiệp tại Việt Nam cho khoa học đã là một dịch chuyển xuất phát từ thay đổi nhận thức và số lượng doanh nghiệp đầu tư cho khoa học, giáo dục với mục đích phi lợi nhuận chưa phải là lớn so với nhu cầu quốc gia.
Tuy nhiên, ông cho rằng đây là một điểm sáng cần được khuyến khích. Lý do được vị chuyên gia này cho rằng “Mức độ phát triển đầu tư của tư nhân cho khoa học công nghệ luôn gấp nhiều lần đầu tư từ ngân sách, bởi vì đầu tư của tư nhân có ưu thế về hiệu quả, sáng tạo và linh hoạt”.
Ông Việt cũng minh họa bằng câu chuyện đầu tư của tập đoàn Corning của Mỹ, vốn sản xuất cốc chén thủy tinh. Xuất phát từ nhu cầu thị trường, doanh nghiệp này đặt hàng nghiên cứu, chấp nhận đầu tư ban đầu rất lớn để nghiên cứu ra sản phẩm vốn không phải là sở trường. Chỉ sau chưa đầy 10 năm, từ công ty chỉ sản xuất cốc chén thủy tinh, Corning trở thành công ty cáp quang đứng đầu thế giới.
Thực tế những đặt hàng của doanh nghiệp thường xuất phát từ nhu cầu của thị trường, vì vậy sự “khơi mào” đầu tư cho khoa học công nghệ từ doanh nghiệp cần được khuyến khích. “Nhà nước phải có trách nhiệm nuôi dưỡng lửa nhiệt tình này để có được nó lâu dài bằng các chính sách tôn vinh, khuyến khích phù hợp. Nếu tư nhân đầu tư cho khoa học công nghệ và giáo dục thành một trào lưu thì rất đáng mừng, đó cũng là xu hướng chung của thế giới”, TS Việt nhận định.
Biết rằng để tạo "cú hích" đối với khoa học không đơn giản như trong lĩnh vực kinh tế hay xã hội, bởi lĩnh vực này đòi hỏi đầu tư dài hạn, kiên nhẫn, chấp nhận rủi ro. Nhưng sự tiên phong của các Quỹ tài trợ khoa học phi lợi nhuận do doanh nghiệp tư nhân lập nên sẽ góp phần lan tỏa thay đổi tư duy về đầu tư cho khoa học công nghệ, từ đó nhà nước cũng có thể sẽ rút ra kinh nghiệm đầu tư cho khoa học công nghệ có định hướng cụ thể và xuất phát từ nhu cầu thị trường.
"Về lâu dài, doanh nghiệp đầu tư đều đòi hỏi kết quả sản phẩm cụ thể. Đó là cái mà đầu tư nhà nước rất thiếu”, TS Việt chia sẻ và nhấn mạnh về sự mong đợi là một chiến lược đầu tư có trọng tâm mới có thể là một cú hích thực sự, vì dù sao có kết quả mới nuôi dưỡng tầm nhìn.
End of content
Không có tin nào tiếp theo