Rời nhà hát, chúng tôi vào vòng bao cuối cùng, nơi xây dựng tư dinh của vua và các bà vợ trong một chuỗi những sân và vườn.
Các lâu đài này đều có hai tầng lầu, cửa sổ và ban công, trong đó có bốn tòa là của hoàng quý phi hay hoàng hậu và ba bà vợ hạng nhất.
Sáu tòa còn lại được ngăn thành những phòng riêng biệt, nội thất được sắm sửa bằng kinh phí quốc khố, là chỗ của các bà vợ khác. Mỗi bà hoặc ở một mình hoặc ở với một số người hầu trong chừng mực được phép.
Vua có rất nhiều vợ. Vua Tự Đức có tới 104 bà. Họ được xếp vào chín bậc, mỗi bậc có một tên khác nhau, được triều đình trả lương tiền và quần áo theo bậc ấy.
Cũng không nhiều lắm: Hoàng quý phi mỗi năm được một nghìn quan tiền (khoảng tám trăm franc), 250 phương gạo đen, 50 phương gạo trắng, 60 tấm lụa để may quần áo.
Các bà phi ở bậc thứ nhì thì chỉ được 500 quan tiền, 205 phương gạo đen, 45 phương gạo trắng và 48 tấm lụa.
Còn lương tiền của các bà ở bậc thứ 9 thì không bao nhiêu: 33 quan tiền, 180 phương gạo đen, 36 phương gạo trắng và 12 tấm lụa (người nước ta chỉ phân biệt gạo trắng, gạo đỏ, gạo tẻ, gạo nếp... không rõ gạo đen nói ở đây là gạo gì - dịch giả).
Theo cấp bậc của mình, mỗi bà vợ vua có thể có một số nàng hầu và phải tự trả công. Hoàng quý phi được 12 nàng hầu, còn bà ở bậc thứ chín thì được thuê ba người.
Luật của vương quốc không hạn chế số phi tần và dù là bao nhiêu cũng đài thọ đầy đủ.
Toàn bộ số nữ nhân này do một số nhất định những bà cao tuổi gồm sáu cấp giám sát. Số nữ giám thị này dưới triều Tự Đức là 60 người, được triều đình đài thọ, còn y phục thì như phu nhân của các quan cao cấp.
Họ cũng chỉ định các hầu gái trong hậu cung phục vụ vua và hoàng thái hậu mỗi ngày và cai quản cả số nu-cong (nữ công - dịch giả) làm nhiệm vụ chèo thuyền ngự và canh gác các lâu đài trong hậu cung.
Tổng số nữ công là 300 người, xếp thành sáu cấp bậc, ở trong một ngôi nhà bên cạnh hậu cung, đồng phục gồm một quần, một áo dài và một khăn xanh.
Bộ phận phục vụ hơn 1.000 người
ỗi ngày nhà vua được một số phụ nữ gồm 15 phi tần và 30 hầu gái phục vụ. Hầu gái mang gươm lớn canh gác lối ra vào các nhà, còn những người kia thì đáp ứng mọi nhu cầu hàng ngày của vua, trong đó năm người phải thường trực cạnh vua, mỗi ngày thay đổi một lần.
Toàn bộ số nữ nhân ấy ở hậu cung là 579 người, thêm vào đó còn có 435 nô tì gộp thành một tổng số đáng kể là 1014 phụ nữ ăn ở trong cung và do triều đình đài thọ.
Vợ vua được tuyển chọn bằng hai cách: Hoặc là các quan lại triều đình hay các tư gia giàu có vì muốn có danh vọng và ân huệ cho gia đình mà hiến dâng con gái đẹp nhất của mình cho vua, hoặc là các cô gái của bách tính được hoàng thái hậu mua về làm diễn viên, do có sắc đẹp nên được vua ưu ái.
Một khi đã vào hậu cung thì có thể nói là người phụ nữ ấy suốt đời bị giam hãm ở đó với nhà vua, coi như không tồn tại trên đời nữa, ngay nhà cha mẹ cũng không còn được thấy lại, chỉ bà mẹ thì lâu lâu mới được vào cung thăm con.
Nếu một bà vợ vua mắc bệnh hơi nặng thì bà ta sẽ bị cách ly trong bệnh xá của hậu cung để các ngự y chữa chạy dưới sự giám sát của các thái giám. Nếu là bệnh nan y thì người đàn bà ấy có thể được trả về với gia đình. Trường hợp bị chết đột ngột thì thi thể bà ta được một cái tời nâng qua tường thành ra ngoài.
Không bao giờ được phép đưa một xác chết qua cửa cung. Ngay nhà vua khi băng hà cũng không phải là ngoại lệ. Người ta sẽ đục tường thành đưa linh cữu ông ra ngoài rồi xây bít lại ngay.
Vua băng hà thì các bà vợ có hai nơi khác nhau để ra đi. Những bà cấp cao nhất thì đến các lâu đài trong lăng vua và đèn hương thờ phụng người chồng quá cố suốt quãng đời còn lại của mình dưới sự giám sát của các thái giám.
Những người cấp dưới thì được trở về với gia đình, nhưng dù đẹp dù khéo đến đâu họ cũng chỉ có thể tái hôn với những người thuộc lớp bình dân, không có chức vụ gì của triều đình.
Cấm ngặt các quan ở bất cứ cấp bậc nào kết hôn với người đàn bà từng ở hậu cung. Sự cấm kị ấy là để tỏ lòng tôn kính hương hồn nhà vua đã khuất (có lẽ không hẳn như vậy, các bà đã có con, nhất là con trai thì ở với con. Còn các bà "cấp dưới" thì không phải ai cũng được về với gia đình mà chính họ phải ở lại giữ lăng thờ vua - dịch giả).