Khám phá

Vị trạng nguyên đứng đầu trong bia tiến sĩ ở Văn Miếu, được vua Lê vẽ chân dung đặt cạnh ngai vàng

Ông là vị trạng nguyên đầu tiên của triều Hậu Lê, đồng thời cũng là vị trạng nguyên đầu tiên được khắc tên lên bia tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Theo sách Những người thầy trong sử Việt, ông cũng rất được các đời vua Lê yêu quý.

Phi tần qua đời, tài sản của họ được xử lý ra sao? Hậu thế nghe chân tướng mà xót xa thay / Ảnh hiếm cận cảnh hình phạt tàn bạo cuối thời nhà Thanh, hé lộ sự tàn khốc của xã hội khiến hậu thế ám ảnh

Lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn Trực (1417-1474) quê ở làng Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Quốc Oai, nay thuộc Hà Nội. Ông sinh ra trong gia đình truyền thống khoa bảng, từ cụ, ông đến bố đều là tiến sĩ và làm quan trong triều đình.

Từ ngày bé, Nguyễn Trực đã nổi tiếng thông minh, chịu khó học hành. Năm 1442, ở tuổi 25, dưới thời vua Lê Thái Tông, ông thi đỗ trạng nguyên, trở thành vị trạng nguyên đầu tiên của triều Hậu Lê, đồng thời cũng là vị trạng nguyên đầu tiên được khắc tên lên bia tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

Vi-trang-nguyen-dung-dau-trong-bia-tien-si-o-van-mieu-duoc-vua-le-ve-chan-dung-dat-canh-ngai-vang
Ảnh minh hoạ.
Vi-trang-nguyen-dung-dau-trong-bia-tien-si-o-van-mieu-duoc-vua-le-ve-chan-dung-dat-canh-ngai-vang

Năm 1444, ông được nhà vua ban chức “Triều nghi đại phu Hàn lâm viện học sĩ”. Năm 1445 được đổi lại thành “Thiếu trung khanh đại phu, Ngự sử đài ngự sử thị Đô úy”. Nhưng Nguyễn Trực đã dâng biểu từ chối, khiến vua Lê phải ra sắc dụ tới ba lần ông mới chịu nhận.

Sau đó, Nguyễn Trực được vua cử làm Chánh sứ sang nhà Minh để xin dự thi và được vua Minh chấp nhận. Kết quả, ông đậu Trạng nguyên, Trịnh Thiết Trường đậu Bảng nhãn.

Vi-trang-nguyen-dung-dau-trong-bia-tien-si-o-van-mieu-duoc-vua-le-ve-chan-dung-dat-canh-ngai-vang

Tại thời điểm đó, vua Minh phải hết lời khen ngợi Nguyễn Trực: “Đất nào cũng có nhân tài” và phong cho Nguyễn Trực là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”. Về nước, ông được nhà vua phong chức và ban thưởng tám chữ vàng “Thành công danh Nam Bắc triều biên ngã” (công danh cả hai nước đều hoàn thành).

Đến năm 1454, mẹ qua đời, ông xin cáo quan về quê chịu tang. Ông đọc sách, làm thuốc, mở trường dạy học, các học sĩ bốn phương đến theo học rất đông. Nhiều bậc cự nho, danh sĩ khoa bảng đều từng là học trò của Trạng nguyên Nguyễn Trực trong thời gian ông ở quê chịu tang mẹ.

Vi-trang-nguyen-dung-dau-trong-bia-tien-si-o-van-mieu-duoc-vua-le-ve-chan-dung-dat-canh-ngai-vang

Năm 1457, mãn tang mẹ, sứ nhà Minh sang, vua Lê mời ông về kinh giữ việc tờ bồi qua lại với sứ nhà Minh. Ông họa thơ lưu biệt sứ Minh 50 vận, làm vẻ vang cho quốc thể. Thấy vậy, vua sai thợ vẽ tới nhà Nguyễn Trực vẽ truyền thần, để bên cạnh chỗ ngồi, để tỏ rằng vua yêu dấu không lúc nào quên được.

 

Vi-trang-nguyen-dung-dau-trong-bia-tien-si-o-van-mieu-duoc-vua-le-ve-chan-dung-dat-canh-ngai-vang

Khi vua Lê Nhân Tông bị hãm hại, Nguyễn Trực thảo văn tế, lời lẽ thống thiết, kể hết công đức của tiên đế. Năm 1460, Lê Thánh Tông lên ngôi, Nguyễn Trực càng được yêu quý. Vua cho người đem bộ Thiên nam du hạ tập đến tận nhà của Nguyễn Trực để ông đọc và phẩm bình. Cùng năm, ông được bổ Tuyên phụng đại phu, Trung thư lệnh, ở hàng văn quan rất to. Đáng nói, đã không ít lần ông xin về quê nhưng nhà vua đều từ chối.

Đến năm 1474, Nguyễn Trực qua đời, hưởng thọ 57 tuổi. Dù đã ra đi nhưng tên tuổi của ông mãi mãi là dấu son chói lọi trong lịch sử văn hiến Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, vua Lê ban mũ áo Trạng nguyên vinh quy về làng.

- Video: Bí ẩn ngọn đèn "cháy sáng ngàn năm không tắt" trong lăng mộ Tần Thuỷ Hoàng. Nguồn: VTV24.
 
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo

Có thể bạn quan tâm