Ngành sợi, dệt, may Việt Nam: Vì sao điêu đứng, đứng bên bờ vực phá sản?
Dệt may Việt Nam gặp bất lợi trong các hiệp định tự do thương mại mới / Dệt may gặp khó vì căng thẳng thương mại Mỹ - Trung
Tại Diễn đàn Hợp tác - Liên kết và Phát triển doanh nghiệp khu vực phía Bắc, lần thứ XII, với Chủ đề: “Thúc đẩy thực hiện Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa để bứt phá, phát triển” do Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Việt Nam tổ chức vào ngày 18/12/2019 tại TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Hưng Yên - Phó chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam cho biết, năm 2019 các doanh nghiệp ngành Sợi, May Việt Nam lại đối mặt với những khó khăn, thách thức quá lớn, khó có thể tự mình vượt qua được để duy trì mức độ tăng trưởng như những năm trước.
Theo ông Nguyễn Xuân Dương, mười năm trở lại đây ngành Dệt May Việt Nam liên tục tăng trưởng với tỷ lệ bình quân là trên 15%/ năm, thu hút, tạo việc làm cho thêm hàng triệu lao động. Nhưng năm 2019 này ngành Dệt May Việt Nam đang đứng những thách thức quá lớn, cụ thể: Ngành May thì thiếu đơn hàng, giá gia công giảm sâu chưa từng có, ngành Sợi vừa bị giảm giá lại không bán được hàng, ngành Dệt không thể phát triển vì thiếu vốn, thiếu kỹ thuật công nghệ, thiếu điều kiện hấp dẫn để kêu gọi đầu tư từ nước ngoài.
Ngành dệt may Việt Nam mất đơn hàng về tay Ấn Độ và Bangladesh
Phân tích về nguyên nhân gì dẫn đến tình trạng này? Ông Nguyễn Xuân Dương cho biết, nguyên nhân khách quan là do hàng May Việt Nam mất lợi thế cạnh tranh so với các nước xuất khẩu (cùng trong Top 4) là Ấn Độ và Bangladesh. Hai nước này năm 2018 đều có kim ngạch xuất khẩu tương đương Việt Nam (khoảng 35 – 37 tỷ USD) nhưng họ hơn chúng ta nhiều lợi thế so sánh.
Ví dụ, tiền lương tối thiểu của hai nước này thấp hơn hẳn Việt Nam chỉ vào khoảng 100 – 120 USD (Việt Nam trên 200USD), nguồn bông, vải tự cung cấp từ 90 – 100% - (Việt Nam khoảng 20%). Chính phủ hai nước này có nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp Dệt, May xuất khẩu như: hoàn thuế VAT với tỷ lệ cao; lãi xuất tín dụng thấp; Nhà nước xử lý nước thải tập trung cho các khu công nghiệp dệt nhuộm. Tỷ giá đồng nội tệ của các nước này so với USD liên tục giảm (năm 2018 là 12 – 15%; 6 tháng đầu năm 2019 là từ 5 – 6%). Thuể nhập khẩu trung bình của hàng dệt may của 2 nước này vào 2 thị trường chính là Mỹ và châu Âu chỉ bằng 30 – 50% so với Việt Nam. Chính vì các lý do này mà từ cuối năm 2018 các đơn hàng may gia công tại Việt Nam bị khách hàng có xu hướng chuyển dịch sang Ấn độ và Bangladesh, gây ra tình trạng thiếu đơn hàng.
Bên cạnh đó, còn có nguyên nhân là mặt hàng sợi Việt Nam đang xuất khẩu chính vào thị tường Trung Quốc. Song từ cuối năm 2018 do sự xung đột thương mại Mỹ Trung đã làm các nhà sản xuất dệt Trung Quốc có sự điều chỉnh kế hoạch nhập sợi giảm. Đồng thời đồng nội tệ của Trung Quốc cũng giảm giá trên 10% so với USD nên các doanh nghiệp sản xuất Sợi Việt Nam đang trong tình trạng điêu đứng vì giá sợi và lượng sợi xuất đi đều giảm khá sâu.
“Có những đơn vị thua lỗ hàng trăm tỷ đồng và nhiều doanh nghiệp có nguy cơ đóng cửa hoặc phá sản”, ông Xuân Dương cho hay.
Ngành sợi, dệt, may Việt Nam đang điêu đứng và đứng trước nguy cơ bị phá sản.
Chính sách đang “bó buộc” ngành Dệt May Việt Nam
Về nguyên nhân chủ quan, ông Nguyễn Xuân Dương cho rằng, doanh nghiệp Dệt May Việt Nam vừa nhỏ về quy mô lại thiếu tiềm lực tài chính, công nghệ và kỹ thuật. Do vậy năng suất lao động bình quân thấp so với các nước trong khu vực. Trong khi đó tiền lương tối thiểu liên tục tăng, cao hơn nhiều so với mức tăng năng suất lao động. Tỷ lệ chi phí bảo hiểm, phí công đoàn cao nhất khu vực, các chi phí đầu vào liên tục tăng làm mất khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Các chính sách về lao động không theo kịp nền kinh tế thị trường, bị thắt chặt về giờ làm thêm đối với người sử dụng lao động (Việt Nam 200 - 300 giờ/năm so với Trung Quốc là 600 giờ/năm; Nhật Bản là 720 giờ/năm) dẫn đến tình trạng các tổ chức lao động quốc tế ILO, Beterwok đánh giá các doanh nghiệp Việt Nam không tuân thủ pháp luật của nhà nước Việt Nam, nên cảnh báo khách hàng chuyển hàng đến quốc gia khác.
Đồng thời người lao động lại được quyền chấm dứt hợp đồng lao động trong mọi trường hợp và người chủ sử dụng lao động phải thanh toán tiền thôi việc cho họ. Điều này dẫn đến tình trạnh người lao động tổ chức nhảy việc từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác, gây xáo trộn lao động quá lớn, làm ảnh hưởng không nhỏ đến những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động như doanh nghiệp Dệt May và ảnh hưởng cả uy tín quốc gia.
Các địa phương chưa thật sự tạo điều kiện cho doanh nghiệp Dệt May đầu tư vào địa phương (nhất là doanh nghiệp Dệt, Nhuộm, hoàn tất) vì cho rằng làm ảnh hưởng đến môi trường và nảy sinh nhiều vấn đề bất ổn do đông công nhân lao động, nhưng lại không thu được ngân sách do làm xuất khẩu.
Ngành Dệt May Việt Nam không thể tận dụng các cơ hội về giảm thuế cho hàng Dệt May xuất khẩu vào các nước, mặc dù Việt Nam đã ký kết các hiệp định thương mại đa phương như CTTPP, EVFTA hoặc các hiệp định song phương giữa Việt Nam - Nhật Bản; Việt Nam – Hàn Quốc. Vì hầu hết các hiệp định này đều quy định về hàng hóa Dệt May Việt Nam chỉ được miễn, giảm thuế nếu có xuất xứ từ sợi (hoặc từ vải) sản xuất tại Việt Nam.
Doanh nghiệp Dệt May đang làm và mong muốn gì?
Đứng trước những thách thức to lớn này, doanh nghiệp Sợi, Dệt, May Việt Nam phải chống chọi như thế nào? Ông Nguyễn Xuân Dương cho hay, sự cố gắng của các doanh nghiệp ngành Dệt May Việt Nam lúc này chỉ là đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị theo hướng hiện đại tiên tiến của Cách mạng công nghệ 4.0. Triển khai đào tạo nâng cao tay nghề cho nguồn nhân lực để tăng năng xuất lao động. Nhưng sự cố gắng này chỉ có thể tăng năng xuất thêm từ 5 – 7%/ năm cũng chưa đủ bù cho việc tăng lương tối thiểu hàng năm.
Còn lại những lợi thế so sánh khác doanh nghiệp Dệt May đang bị mất đi so với các đối thủ cạnh tranh. Do đó, ngành Dệt May rất trông chờ vào nhà nước, chính phủ có những chủ trương chính sách phù hợp để doanh nghiệp Dệt May có thể trụ vững và tiếp tục cạnh tranh hội nhập được vào chuỗi hàng hóa dệt May thế giới; đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế đất nước và ổn định an sinh xã hội.
End of content
Không có tin nào tiếp theo