Gỡ 'điểm nghẽn' năng suất cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
Cần ‘lá chắn’ đa tầng để doanh nghiệp trụ vững trước rào cản thương mại / Đề xuất xây lộ trình số hóa, xanh hóa mẫu cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số giai đoạn 2026–2030, khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN), chiếm hơn 97% tổng số doanh nghiệp cả nước, được kỳ vọng sẽ trở thành động lực then chốt.
Tuy nhiên, theo TS Lê Hữu Thi - Viện trưởng Viện Công nghệ và Sức khỏe (HETEC), nhiều “điểm nghẽn cấu trúc” đang khiến doanh nghiệp khu vực này chưa thể bứt phá, từ thể chế, tài chính, công nghệ đến nhân lực và liên kết chuỗi giá trị. Nếu không tháo gỡ triệt để, năng suất thấp sẽ tiếp tục là rào cản khiến doanh nghiệp Việt khó chuyển từ tăng trưởng “chiều rộng” sang “chiều sâu” và mục tiêu tăng trưởng hai con số sẽ khó đạt được.

Mắc kẹt trong bẫy năng suất thấp
Theo TS Lê Hữu Thi, trong hơn hai thập niên qua, tăng trưởng của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào hai yếu tố truyền thống là vốn và lao động. Tuy nhiên, dư địa cho mô hình này đang dần cạn kiệt, trong khi năng suất nhân tố tổng hợp (TFP), thước đo phản ánh hiệu quả sử dụng nguồn lực, mới chỉ đóng góp khoảng 38–40% vào tăng trưởng, thấp hơn nhiều so với mức 50–55% ở các nền kinh tế công nghiệp hóa.
Các dữ liệu giai đoạn 2016–2024 cho thấy một nghịch lý: số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng đều, song năng suất lao động và giá trị gia tăng không được cải thiện tương xứng. Chi tiêu cho nghiên cứu–phát triển (R&D) chỉ đạt khoảng 0,4–0,45% GDP, thấp hơn một nửa so với trung bình khu vực ASEAN. Tỷ lệ doanh nghiệp tiếp cận được tín dụng chính thức chỉ đạt 39%.
“DNVVN Việt Nam đang mắc kẹt trong ‘bẫy năng suất thấp’. Dù mở rộng về lượng nhưng không tiến bộ về chất”, TS Thi nhận định.
Viện trưởng Viện HETEC cho rằng, căn nguyên nằm ở cấu trúc phát triển thiếu cân đối giữa thể chế, vốn, công nghệ và nhân lực. Một mặt, thể chế hỗ trợ doanh nghiệp còn phân mảnh, thiếu đồng bộ. Mặt khác, doanh nghiệp lại chưa đủ năng lực để hấp thụ và chuyển hóa chính sách thành năng suất thực tế. Hệ quả là khu vực DNVVN vẫn loay hoay trong vòng luẩn quẩn năng suất thấp dù có nhiều chương trình hỗ trợ.
Trước hết là vấn đề thể chế và thực thi chính sách. Dù Việt Nam đã ban hành Luật Hỗ trợ DNVVN từ năm 2017 cùng nhiều nghị quyết phát triển kinh tế tư nhân, song hiệu quả thực thi vẫn còn hạn chế.
Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược (CIEM) - Ban Chính sách, chiến lược Trung ương năm 2024, cho thấy 12% doanh nghiệp thực sự nhận được hỗ trợ; gần ⅔ số doanh nghiệp phản ánh thủ tục hành chính còn phức tạp, thiếu minh bạch.
Rào cản thứ hai là khó khăn về tài chính. Khoảng 61% DNVVN vẫn đứng ngoài lề tín dụng chính thức do thiếu tài sản thế chấp hoặc hồ sơ chưa minh bạch. Quỹ bảo lãnh tín dụng hoạt động yếu, còn các công cụ tài chính mới như quỹ đầu tư mạo hiểm hay trái phiếu doanh nghiệp nhỏ chưa phát triển. Thiếu vốn dài hạn khiến nhiều doanh nghiệp không thể đầu tư cho đổi mới công nghệ, yếu tố quyết định năng suất.
Vấn đề thứ ba nằm ở đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO, 2025), Việt Nam đứng thứ 46/132 quốc gia về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu. Tuy nhiên, chỉ khoảng 8% doanh nghiệp có hoạt động R&D thường xuyên và chưa tới 10% triển khai hệ thống quản trị ERP hoặc CRM.
“Nhiều doanh nghiệp vẫn xem đổi mới là chi phí, trong khi đó phải coi là khoản đầu tư chiến lược”, TS Thi nói.
Bên cạnh đó, chất lượng nhân lực và năng lực quản trị còn hạn chế. Khoảng 68% lao động trong DNVVN chưa qua đào tạo nghề chính quy, phần lớn doanh nghiệp vẫn vận hành theo mô hình gia đình, thiếu các hệ thống quản trị hiện đại, không có quy trình KPI hay quản trị dữ liệu.
Cuối cùng là liên kết chuỗi giá trị còn yếu. Chỉ khoảng 14% DNVVN tham gia chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI, mức nội địa hóa trong các ngành then chốt như điện tử, cơ khí, ô tô chỉ đạt 35–40%, thấp hơn đáng kể so với Thái Lan hay Malaysia.
“Doanh nghiệp không thể nâng năng suất nếu chỉ dừng ở khâu gia công. Muốn có lan tỏa công nghệ, phải có thể chế và hạ tầng kết nối với khu vực FDI”, Viện trưởng Viện HETEC nhấn mạnh.
Chuyển từ hỗ trợ sang kiến tạo
Theo TS Lê Hữu Thi, để thoát khỏi vòng luẩn quẩn năng suất thấp, Việt Nam cần chuyển từ chính sách “hỗ trợ dàn trải” sang “kiến tạo năng lực”. Tức là giúp doanh nghiệp hình thành và phát triển năng lực nội tại thay vì chỉ nhận hỗ trợ tài chính ngắn hạn.
Trước hết, phải bắt đầu từ cải cách thể chế và thực thi chính sách. Nhà nước cần đóng vai trò kiến tạo, giảm chi phí tuân thủ, minh bạch hóa quy trình và xây dựng hệ thống dữ liệu doanh nghiệp liên thông giữa các bộ, ngành, địa phương. Các chính sách về tài chính, công nghệ và nhân lực phải được thiết kế theo chuỗi đồng bộ thay vì tách rời.
Song song với đó là thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Chính phủ nên mở rộng các quỹ đồng tài trợ công – tư cho các dự án R&D, hình thành mạng lưới trung tâm đổi mới vùng gắn với viện nghiên cứu, trường đại học. Việc phổ cập kỹ năng số và quản trị dữ liệu cần trở thành nhiệm vụ trọng tâm trong chương trình quốc gia về năng suất.
Một hướng đi quan trọng khác là mở rộng tiếp cận tài chính cho DNVVN. Việt Nam có thể học hỏi mô hình SME Bank của Hàn Quốc hay SME Corp của Malaysia. Đây là những ngân hàng phát triển chuyên biệt cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh đó, cần tái cấu trúc Quỹ bảo lãnh tín dụng, tạo cơ chế chia sẻ rủi ro giữa ngân hàng và Nhà nước, đồng thời nâng cao minh bạch tài chính, xếp hạng tín dụng để giảm chi phí vốn.
Về nhân lực và quản trị, cần tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp–trường nghề–viện nghiên cứu, đào tạo sát với nhu cầu thị trường. Doanh nghiệp nhỏ nên được khuyến khích áp dụng mô hình quản trị hiện đại, dựa trên dữ liệu và đánh giá hiệu quả bằng KPI, qua đó hình thành văn hóa học tập và đổi mới liên tục.
Cuối cùng, phải tăng cường liên kết chuỗi giá trị trong và ngoài nước. Chính phủ cần triển khai chương trình phát triển nhà cung ứng nội địa, hỗ trợ doanh nghiệp đạt các tiêu chuẩn quốc tế như ISO, ESG, HACCP, đồng thời khuyến khích thương mại điện tử xuyên biên giới để mở rộng thị trường xuất khẩu.
TS Thi cho rằng, Việt Nam cần sớm xây dựng một “khung thể chế – năng lực” thống nhất gồm năm trụ cột: thể chế, tài chính, đổi mới – công nghệ, nhân lực – quản trị, và liên kết chuỗi giá trị. Khi năm trụ cột này được vận hành đồng bộ, doanh nghiệp nhỏ và vừa mới có thể bứt phá, nâng cao năng suất một cách bền vững.
“Nếu được thực hiện đúng hướng, đóng góp của TFP có thể tăng lên 45–50%, năng suất lao động tăng 8–9% mỗi năm, qua đó tạo nền tảng hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026–2030”, TS Lê Hữu Thi nhấn mạnh.
End of content
Không có tin nào tiếp theo









