Nhập khẩu năng lượng là tất yếu
Thách thức năng lượng
Theo dự báo, từ nay đến năm 2030, mức tăng trưởng GDP 6,5 - 7,5%/năm của Việt Nam sẽ kéo theo sự tăng trưởng nhanh của ngành năng lượng và dự kiến đạt tới 140 triệu tấn dầu quy đổi, gấp 2 lần so với nhu cầu của năm 2015. Để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế, điện nói riêng và năng lượng nói chung được xem là luôn đi trước một bước.
Nguy cơ thiếu điện sau năm 2020 với Việt Nam là hiện hữu |
Ông Ngô Sơn Hải, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, tiêu thụ điện trong những năm gần đây tăng với tốc độ cao, bình quân 12,04%/năm trong giai đoạn 2003 - 2018, dự kiến sản lượng điện thương phẩm năm 2018 đạt 192,1 tỷ kWh, tăng 5,5 lần so với năm 2003 (34,9 tỷ kWh). Đến năm 2020, sản lượng điện dự báo cần 265 - 278 tỷ kWh và khoảng 572 - 632 tỷ kWh vào năm 2030. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2016 - 2020 là 10,3 - 11,3%/năm, giai đoạn 2021 - 2030 khoảng 8,0 - 8,5%/năm.
“Đây là thách thức rất lớn với nước ta khi các nguồn năng lượng sơ cấp như thủy năng, than đá, dầu khí đã được khai thác hết hoặc đang cạn kiệt, không đủ cho nhu cầu trong nước. Mặt khác, các yêu cầu cao về bảo vệ môi trường cũng tạo áp lực to lớn với việc thực hiện chiến lược đảm bảo an ninh năng lượng gắn với phát triển bền vững của nước ta”, Thứ trưởng Bộ Công thương Hoàng Quốc Vượng nói.
Với thực tế trên, ngành năng lượng Việt Nam đã, đang và sẽ đối mặt với nhiều thách thức. Đó là hạn chế về nguồn cung năng lượng sơ cấp trong nước, dẫn đến sự phụ thuộc ngày càng tăng vào nguồn nhiên liệu nhập khẩu, đặc biệt nhiên liệu cho phát điện. Khi Việt Nam trở thành quốc gia nhập khẩu tịnh năng lượng và tỷ trọng của năng lượng nhập khẩu trên tổng nguồn cung năng lượng sơ cấp tăng lên, sẽ tác động lớn đến an ninh năng lượng quốc gia.
“Tốc độ tăng cao của nhu cầu năng lượng gây sức ép lên hạ tầng ngành năng lượng, đòi hỏi vốn đầu tư lớn trong bối cảnh nợ công tăng cao và quá trình cổ phần hóa chưa thuận lợi. Ngoài ra, thách thức về tác động môi trường của các hoạt động cung cấp năng lượng ngày càng gia tăng do nhu cầu năng lượng trong nước tăng nhanh, đi kèm với sự gia tăng nhanh về tỷ trọng các nguồn nhiên liệu hóa thạch, đặc biệt là than trong cơ cấu nguồn cung năng lượng”, ông Lê Văn Lực, Phó cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo nhận xét.
Đổ dầu vào phát điện
Bộ Công thương khi trình Chính phủ phê duyệt Quy hoạch Phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2016 - 2025, định hướng đến năm 2035, có đặt ra mục tiêu là huy động mọi nguồn lực trong nước và quốc tế cho phát triển năng lượng để cung cấp đầy đủ năng lượng với chất lượng ngày càng cao và mức giá hợp lý cho phát triển kinh tế - xã hội.
Trước thực tế nhu cầu điện tiêu dùng trong nước không ngừng tăng, ông Ngô Sơn Hải cho hay, từ năm 2019, sẽ phải huy động nhiều hơn nguồn nhiệt điện chạy dầu với giá cao, tương ứng 4,4 tỷ kWh và năm 2020 là 5,2 tỷ kWh. Dĩ nhiên, khi đổ dầu vào phát điện, áp lực tăng giá điện cũng lên cao.
Tuy vậy, trường hợp các tổ máy phát điện không đáp ứng độ tin cậy vận hành hoặc không đảm bảo đủ nhiên liệu (than, khí) cho phát điện, nguy cơ thiếu điện có thể đến sớm hơn, vào năm 2020. Chưa kể tại khu vực miền Nam, mỗi dự án nhiệt điện than 1.200 MW bị chậm tiến độ sẽ làm mức độ thiếu điện tại đây tăng thêm 7,2 - 7,5 tỷ kWh/năm.
Ông Hoàng Quốc Vượng cũng cho biết, nguy cơ thiếu điện sau năm 2020 với Việt Nam là hiện hữu. Nguy cơ này có thể càng cao nếu tăng trưởng phụ tải điện cao hơn dự báo, các nguồn cấp khí (Khí Lô B, Cá Voi Xanh...) chậm tiến độ, lượng về các hồ thuỷ điện kém hơn trung bình nhiều năm. “Nguy cơ thiếu điện giai đoạn 2021 - 2023 là có thực và nếu tăng trưởng phụ tải các năm tới cao hơn dự báo, thì tình trạng còn nguy cấp hơn”, ông Hoàng Quốc Vượng nói.
Theo ông Vượng, trong giai đoạn tới, nhiều khả năng sẽ thiếu điện, nên cần có cơ chế đặc thù để triển khai dự án, đẩy nhanh tiến độ các dự án mới. Cùng với đó là đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo trong bối cảnh Việt Nam tạm dừng các dự án điện hạt nhân, các dự án nhiệt điện than ngày càng khó thực hiện. Đồng thời, đẩy mạnh chương trình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Để đáp ứng nhu cầu điện tại Việt Nam, việc tính toán tăng nhập khẩu điện từ Trung Quốc theo phương án cách ly lưới điện và đẩy nhanh nhập khẩu điện từ Lào được cho là cần đẩy mạnh hơn. Song song với đó là phát triển các dự án điện mặt trời, ưu tiên các dự án gần trung tâm phụ tải, thuận tiện đấu nối.
Cùng với việc nhập khẩu năng lượng sơ cấp, đổ dầu vào phát điện cao hơn, câu chuyện có mức giá hợp lý cũng là điều mà các doanh nghiệp năng lượng đang đau đầu tính toán để đáp ứng nhu cầu của phát triển kinh tế.
Đáp ứng nhu cầu sử dụng điện cho phát triển kinh tế - xã hội, trong giai đoạn 2003 - 2018, EVN đã hoàn thành đưa vào vận hành 40 nhà máy điện với tổng công suất 20.586 MW. Đến cuối năm 2018, tổng công suất lắp đặt nguồn điện toàn hệ thống dự kiến đạt 47.768 MW (tăng 5,41 lần so với năm 2003), đứng thứ 2 trong các nước ASEAN và thứ 25 thế giới.
Giá trị khối lượng đầu tư toàn tập đoàn lũy kế giai đoạn 2003 - 2018 đạt 1.141.676 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn đầu tư năm 2018 dự kiến đạt 117.843 tỷ đồng, gấp 6,37 lần so với năm 2003 (18.489 tỷ đồng). Giá trị đầu tư hàng năm của EVN bằng 8 - 10% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
End of content
Không có tin nào tiếp theo