Doanh nghiệp do nữ làm chủ thể hiện sự linh hoạt, hiệu quả hơn khi ứng phó với khủng hoảng COVID-19
Đẩy mạnh hỗ trợ các doanh nghiệp do nữ làm chủ / Tổng thống Putin: Nga quyết không để bị cô lập và sẽ thích ứng với tình hình kinh tế mới
Báo cáo “Nghiên cứu, đánh giá khả năng ứng phó của doanh nghiệp Việt Nam với khủng hoảng COVID-19” được thực hiện dưới sự hỗ trợ của Chương trình Australia hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform) cho rằng, đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) của doanh nghiệp Việt Nam, khiến nhiều doanh nghiệp buộc phải tạm ngừng hoạt động, thậm chí đứng trước nguy cơ phá sản.
Doanh nghiệp Việt Nam với đa phần là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), có quy mô nhỏ và thời gian hoạt động ngắn, vì vậy, thường hạn chế về nguồn lực và kinh nghiệm trong ứng phó với những biến động bất ngờ của nền kinh tế, nhất là trong các cuộc khủng hoảng có tác động trên quy mô rộng và thời gian dài như đại dịch COVID-19.
Trong quá trình ứng phó với khủng hoảng do đại dịch COVID-19 gây ra, nghiên cứu cho thấy, đối mặt với khủng hoảng, gần như các doanh nghiệp phải chuyển đổi mô hình kinh doanh, thay đổi phương thức kinh doanh, thay đổi từ mô hình kinh doanh truyền thống sang mô hình kinh doanh phi truyền thống.
Đồng nghĩa với điều đó thì việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), chuyển đổi số (CĐS) trong doanh nghiệp là một yếu tố sống còn để bảo đảm doanh nghiệp có thể duy trì hoạt động và phát triển.
Qua các thông tin từ khảo sát và phỏng vấn sâu, đa phần các doanh nghiệp đều có quan điểm chung coi nhân sự là tài sản quý giá nhất của doanh nghiệp, đóng vai trò quan trọng nhất, là yếu tố hàng đầu trong việc duy trì và phát triển doanh nghiệp.
Đồng thời, quản trị nguồn lực tài chính và cân đối dòng tiền là yếu tố cần thiết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tồn tại, đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng, bởi đây được coi là dòng máu, nguồn sinh lực nuôi sống doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp cần chuẩn bị nguồn lực với các mức dự trữ tiền, tài sản phù hợp với quy mô hoạt động của doanh nghiệp để có thể đầu tư vào hoạt động sản xuất, tham gia vào các dự án mới hoặc ít nhất là có thể duy trì được hoạt động SXKD ngay cả khi nền kinh tế chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi khủng khoảng.
Để hạn chế phần nào những tổn thất có thể xảy ra, doanh nghiệp cần phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa để khi vốn kinh doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng bị hao hụt, doanh nghiệp có thể có ngay nguồn bù đắp, bảo đảm cho quá trình hoạt động kinh doanh diễn ra liên tục.
Doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là DNNVV, với đặc điểm là tính linh hoạt cao nhưng sức chống chịu kém. Khi gặp khủng hoảng, thường chưa có chiến lược ứng phó và quản trị rủi ro.
Do đó, để hỗ trợ doanh nghiệp, cần có chiến lược ứng phó với khủng hoảng ở tầm quốc gia, định hướng cho doanh nghiệp những việc cần làm ngay và hành động ưu tiên nhằm tiết kiệm nguồn lực và tăng tính hiệu quả cho hoạt động của doanh nghiệp, trong đó có những giải pháp hỗ trợ nhằm tăng khả năng chống chịu của doanh nghiệp trong bối cảnh khủng hoảng.
Báo cáo nhận định: Mỗi doanh nghiệp khác nhau, có tiêu chí đánh giá doanh nghiệp thành công vượt qua khủng hoảng COVID-19 khác nhau. Tuy nhiên, có thể thấy có một số tiêu chí chung để đánh giá một doanh nghiệp thành công vượt qua khủng hoảng.
Đó là doanh nghiệp không bị ngừng hoạt động, lợi nhuận tăng, tìm kiếm được khách hàng mới, năng suất lao động tăng, áp dụng CNTT, CĐS trong quá trình SXKD.
“Các doanh nghiệp do nữ làm chủ thể hiện sự linh hoạt hơn trong thời kỳ khủng hoảng, chủ động hơn trong việc lập kế hoạch dự phòng và áp dụng các chiến lược kinh doanh thận trọng, từ đó tăng khả năng phục hồi của họ trong thời kỳ khủng hoảng”, Báo cáo cho biết.
Từ những phát hiện trên trong quá trình nghiên cứu, Báo cáo khuyến nghị để giúp các doanh nghiệp có thể thích ứng và ứng phó có hiệu quả với các cuộc khủng hoảng, doanh nghiệp cần cải thiện và nâng cao năng lực về tài chính để trụ vững, duy trì hoạt động trong khủng hoảng.
Cùng với đó là bảo đảm việc làm và khả năng thích ứng cho lao động chủ chốt khi khủng hoảng ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp. Nâng cao năng lực ứng phó với khủng hoảng và khả năng chủ động thích ứng với những biến động bất thường của các diễn biến trong và ngoài nước.
Cụ thể hơn, doanh nghiệp cần cân đối dòng tiền, cắt giảm các khoản chi tiêu chưa cần thiết, bảo đảm hiệu quả hoạt động và dòng tiền của doanh nghiệp. Giải quyết ngay những vấn đề phát sinh đột xuất, bất thường có nguy cơ ảnh hưởng đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần coi nhân sự là tài sản quan trọng nhất của doanh nghiệp, thường xuyên đối thoại với người lao động, nhất là khi khủng hoảng xảy ra, nhằm đưa ra phương hướng hoạt động, sản xuất cho doanh nghiệp trong bối cảnh khủng hoảng, cũng như thực hiện các giải pháp hiệu quả hỗ trợ người lao động.
Chú trọng nâng cao chất lượng các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp, nắm bắt xu hướng tiêu dùng của khách hàng để chuyển hướng kịp thời; thay thế các hình thức, phương thức kinh doanh, các sự kiện bán hàng theo kiểu truyền thống bằng các giải pháp công nghệ mới để khách hàng dễ dàng tiếp cận thông tin, kinh doanh trên các sàn giao dịch điện tử.
Ngoài ra cần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn; chủ động tìm hiểu, nắm bắt thông tin thị trường, tình hình kinh tế, chính trị trong nước và trên thế giới; đa dạng hóa nguồn nguyên liệu đầu vào; tăng cường liên kết thông qua các chuỗi cung ứng và mạng lưới các hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng và địa phương.
End of content
Không có tin nào tiếp theo