Hỗ trợ doanh nghiệp

Quản trị tài nguyên nước: Từ áp lực thị trường đến mô hình hợp tác đa bên hiệu quả

DNVN - Trước những thách thức ngày càng gia tăng về an ninh nguồn nước, sự hợp tác chặt chẽ giữa nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và cộng đồng được xem là chìa khóa để bảo đảm phát triển bền vững.

Doanh nghiệp Việt thiếu đầu tư công nghệ, nghiên cứu và phát triển / Ngành da giày tăng trưởng tích cực nhưng đối mặt 3 thách thức lớn

Tại chương trình chia sẻ với chủ đề “Tăng cường quản trị, bảo tồn tài nguyên nước” do Hội đồng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Việt Nam (VBCSD-VCCI) tổ chức ngày 16/9, các chuyên gia và đại diện doanh nghiệp đã cùng nhau phân tích những động lực, rào cản và đưa ra mô hình hợp tác hiệu quả trong lĩnh vực này.

Động lực "ngoài hàng rào"

Không còn là câu chuyện trách nhiệm xã hội đơn thuần, quản trị nguồn nước hiệu quả đang trở thành một yêu cầu bắt buộc từ thị trường. Theo bà Hạnh Huỳnh - Sáng lập chương trình Water Stewardship Việt Nam, động lực chính thúc đẩy doanh nghiệp hành động đến từ các tiêu chuẩn quốc tế và áp lực của chuỗi cung ứng.

Khi các doanh nghiệp, đặc biệt là những công ty hướng đến xuất khẩu, áp dụng các tiêu chuẩn như Aquaculture Stewardship Council đối với thủy sản hay Better Cotton Initiative đối với dệt may, họ buộc phải quan tâm đến các vấn đề "nằm ngoài hàng rào".

Bà Hạnh Huỳnh giải thích, khái niệm này đòi hỏi doanh nghiệp phải hiểu rõ bối cảnh lưu vực sông nơi họ hoạt động, đánh giá tác động của mình đến môi trường và các bên liên quan, cũng như nhận diện rủi ro nguồn nước có thể ảnh hưởng ngược lại đến chính mình.

"Đây chính là cơ chế tạo ra nhu cầu hợp tác. Trong quá trình đáp ứng các tiêu chuẩn, doanh nghiệp phải tự hỏi: 'Bối cảnh nguồn nước của mình đang gặp vấn đề gì?'. Để trả lời, họ phải làm việc với chính quyền địa phương, cộng đồng và các tổ chức chuyên môn", Sáng lập chương trình Water Stewardship Việt Nam chia sẻ.


Bà Hạnh Huỳnh - Sáng lập chương trình Water Stewardship Việt Nam.

Thực tế, Việt Nam được đánh giá là khu vực có mức độ an ninh nguồn nước chưa cao. Điều này đang tạo ra một sức ép lớn khi các doanh nghiệp quốc tế yêu cầu các nhà cung ứng tại Việt Nam phải có những hành động cụ thể để nâng cao an ninh nguồn nước, không chỉ trong phạm vi nhà máy mà còn cho cả cộng đồng. Đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp chủ động chuyển đổi.

Là một trong những ngành sử dụng nhiều nước, ngành bia – rượu – nước giải khát đã có những bước tiến vượt bậc trong việc tối ưu hóa tài nguyên. Bà Chu Thị Vân Anh - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Bia – Rượu – Nước giải khát Việt Nam (VBA) cho biết, các doanh nghiệp lớn như Heineken, Coca-Cola, Pepsi hay Sabeco luôn tiên phong trong các sáng kiến bền vững.

Thách thức lớn nhất của ngành, theo bà, là tối ưu hóa việc sử dụng nước trong toàn bộ quy trình sản xuất để vừa giảm chi phí, vừa bảo vệ môi trường.

"Hiệu quả sử dụng nước đã cải thiện vượt bậc. Nếu trước đây, ngành cần tới 6-8 lít nước để sản xuất 1 lít sản phẩm, thì hiện nay, có doanh nghiệp chỉ cần hơn 2 lít nước, thậm chí có đơn vị như Coca-Cola chỉ cần 1,4 lít nước. Đây là những con số rất ấn tượng", bà Vân Anh chia sẻ.

Tuy nhiên, bức tranh chung vẫn còn những mảng tối, đặc biệt là với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khối doanh nghiệp này đối diện hai rào cản chính: hạn chế về tài chính và công nghệ khiến họ khó đầu tư vào dây chuyền hiện đại, và thiếu cơ hội tiếp cận, kết nối để học hỏi sáng kiến và chính sách hỗ trợ.

Cần mô hình hợp tác 4 bên và sự cởi mở

Từ kinh nghiệm triển khai nhiều dự án bảo tồn nguồn nước thành công, ông Nguyễn Hữu Hoàng - Trưởng bộ phận Phát triển bền vững, HEINEKEN Việt Nam cho biết, chìa khóa không nằm ở một cá nhân hay tổ chức riêng lẻ nào, mà là sự cộng hưởng sức mạnh của tất cả các bên.


Ông Nguyễn Hữu Hoàng - Trưởng bộ phận Phát triển bền vững, HEINEKEN Việt Nam và bà Chu Thị Vân Anh - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Bia – Rượu – Nước giải khát Việt Nam (VBA).

Ông Hoàng nhấn mạnh ba yếu tố làm nên thành công, bao gồm sự kết nối, quyết tâm và tinh thần cởi mở.

Để thành công, phần thực sự khó nhất là kết nối. Việc đưa các bên ngồi lại với nhau, thống nhất một mục tiêu chung dựa trên cơ sở khoa học là bước khởi đầu quyết định. Trong quá trình thực hiện luôn có khó khăn, đòi hỏi các bên phải cùng nhau lắng nghe, chia sẻ và quyết tâm vượt qua thách thức. Thêm vào đó, doanh nghiệp cần cởi mở với cơ quan nhà nước để nhận được sự hỗ trợ về chính sách, cởi mở với đối tác để chia sẻ khó khăn và học hỏi chuyên môn.

Phác thảo mô hình hợp tác 4 bên hiệu quả, ông Hoàng cho biết, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo khuôn khổ pháp lý và dẫn dắt bằng các chính sách thúc đẩy, hỗ trợ. Doanh nghiệp phải tiên phong hành động với cam kết và đầu tư dài hạn, nhận thức rằng phát triển bền vững là con đường duy nhất.

Trong khi đó, các đối tác và tuyền thông là những người chuyển hóa chiến lược thành hành động, lan tỏa các thực hành tốt. Còn cộng đồng vừa là người thụ hưởng, vừa là người đồng hành, có vai trò bảo vệ và duy trì những kết quả mà dự án mang lại.

Liên quan đến đối tượng thụ hưởng từ các dự án phát triển bền vững của doanh nghiệp, theo chia sẻ của bà Nguyễn Thị Nga - Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ xã Duyên Thái, Hà Nội, dự án EkoCenter của Coca-Cola đã mang lại những lợi ích thiết thực cho cộng đồng địa phương.

Mỗi ngày, dự án cung cấp gần 6.000 lít nước tinh khiết cho người dân sử dụng trong ăn uống. Tạo điều kiện cho các phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn sở hữu ki-ốt bán hàng. Gần đây, dự án đã đồng hành cùng làng nghề sơn mài Duyên Thái, hỗ trợ nhiều chị em đưa sản phẩm của mình lên các sàn thương mại điện tử như Shopee, giúp mở rộng kênh tiêu thụ và quảng bá văn hóa địa phương.

Theo các diễn giả và doanh nghiệp, một mô hình thành công là khi có sự dẫn dắt của Nhà nước, sự cam kết của doanh nghiệp, và sự đồng hành của đối tác cùng cộng đồng. Sự kết hợp này không chỉ tạo ra những con số, mà còn tạo ra những giá trị và tác động tích cực, lâu dài.

Thu An
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Có thể bạn quan tâm