Khám phá

Có một “thế giới biệt lập" ở Nam Cực

Hướng dẫn viên du lịch thám hiểm Nate Small cảnh báo khi du khách đi chệch khỏi cung đường đã định và tiến vào những con sóng sủi bọt ở Vịnh Stromness: “Phải giữ khoảng cách ít nhất 200 mét cách trạm săn cá voi - trong đó toàn là amiang và phần mái có thể nổ tung theo đúng nghĩa đen”.

Phát hiện UFO núp trong hang động Nam Cực? / Khám phá những loài sinh vật 'độc nhất vô nhị' dưới đáy Châu Nam Cực

Vài người chọn lối đi cẩn trọng, băng qua bãi biển có đá xám, mắt hồi hộp nhìn những con hải cẩu gầm gừ và những con hải tượng đang nằm ngủ với thân hình to lớn của chúng phát ra một loạt những tiếng ợ, rống và những âm thanh gầm gừ.

Một thời tàn sát cá voi

Ở góc xa của vịnh, giữa khung cảnh sườn núi, bao quanh là đầm lầy, là một cụm những tòa nhà bằng sắt gợn sóng xiêu vẹo, gỉ sét. Mái và tường mất đi những khoảng lớn và những phần còn lại khua lên từng hồi liên tục giữa những cơn gió mạnh như giông lốc. Nó trông có vẻ như là một thảm họa thiên nhiên đã xảy ra. Du khách dừng lại ở tấm biển báo ghi “Amiang - Tránh xa” và nhìn qua màn sương đang lấn tới.

Thật khó mà hình dung nơi này từng là một cộng đồng phồn thịnh, nhưng một thế kỷ trước đây Stromness là một phần của ngành công nghiệp đem lại lợi nhuận cao - và tàn nhẫn - vốn đã giúp South Georgia (đảo thuộc Anh ở ven vòng đai Biển Nam Cực) chuyển mình thành thủ đô đánh bắt cá voi ở Nam Đại Tây Dương.

Seb Coulthard, hướng dẫn viên thám hiểm và là sử gia thường trú của Polar Latitudes, cho biết làm thế nào mà Ernest Shackleton đến được Stromness vào năm 1916 sau chuyến thoát hiểm ngoạn mục.

Ông đã vượt 1.300 km từ Đảo Voi, một trong những hòn đảo thuộc quần đảo South Shetland nằm về phía bắc bán đảo Nam Cực sau khi tàu ông bị mắc kẹt rồi bị băng trôi đè nát.

Loài người chúng ta luôn cần đến thế giới tự nhiên.

Sir Ernest Henry Shackleton, giành các huân chương CVO, OBE là một nhà thám hiểm người Ireland gốc Anh. Sinh ra ở Kilkea (Ireland), Shackleton dẫn đầu 4 cuộc thám hiểm đến châu Nam Cực và được phong tước hầu về thành tích đi về phía Nam nhiều lần hơn những người cùng thời với ông trên con tàu Nimrod.

Tháng 4/1916, cuộc thám hiểm mang tên “Imperial Trans-Antarctic Expedition” của Ernest Shackleton đã bị mắc kẹt trên Elephant Island (đảo Voi), khoảng 1.300 km về phía tây nam của South Georgia. Shackleton và 5 người bạn đồng hành đã lên một chiếc thuyền nhỏ để đi tìm kiếm cứu hộ.

Vào ngày 10/5/916, sau một chuyến đi đầy mạo hiểm có một không hai, họ đã đặt chân xuống Vịnh Haakon trên bờ Nam của South Georgia. Trong khi 3 người ở lại bờ biển, Shackleton và 2 người khác - Tom Crean và Frank Worsley - tiếp tục đi tiếp 35 km trên các sống núi của hòn đảo này để tới được trạm săn cá voi Stromness yêu cầu được sự giúp đỡ. Tiếp theo sau là 22 thành viên còn lại của đoàn thám hiểm ở lại đảo Elephant đã được giải thoát.

Tháng 1/1922, trong một cuộc thám hiểm tiếp sau đó, Shackleton đã chết trên tàu trong khi đang đậu ở King Edward Cove thuộc South Georgia. Ông được chôn tại Grytviken. Nhà thám hiểm Nam Cực khác là Frank Wild cũng được chôn bên cạnh Shackleton vào năm 2011. Đối với những người thám hiểm vùng cực, trạm bắt cá voi tượng trưng cho văn minh, nhưng ngày nay, thế giới tự nhiên đang dần dần giành lại lãnh thổ.

Hải cẩu trú bên cạnh một chiếc lò dùng mỡ cá voi, chim cánh cụt hoàng đế bước qua những nhà kho đang tan rã và những con chimskua (loài chim biển màu nâu đậm, hung hăng) đang dầm mình dưới những dòng suối chảy quanh co mà một thời đã tắm máu hàng chục ngàn con cá voi.

 

Vùng đất gồ ghề, khắc nghiệt với những tảng băng vĩnh cửu, núi và vịnh, South Georgia là một trong những nơi xa xôi nhất Trái Đất. Lãnh thổ hải ngoại ở Nam Cực này của Anh ở Nam Đại Tây Dương nằm cách khu vực có người sinh sống gần nhất - quần đảo Falkland - khoảng 1.400 km và chỉ có thể đến được bằng đường biển.

Phần lớn trong số gần 18.000 du khách đến thăm hàng năm là đi du ngoạn Nam Cực. Hòn đảo này trải rộng trên diện tích 3.755 km vuông - chưa đến một phần năm lãnh thổ xứ Wales - và gần một nửa diện tích của nó bị phủ băng vĩnh cửu (mặc dù do hậu quả của biến đổi khí hậu, các tảng băng ở đây đang thu nhỏ lại nhanh chóng).

Tàn tích hoang phế

Quần đảo South Georgia và South Sandwich (SGSSI) gồm những hòn đảo xa xôi hẻo lánh, bao gồm South Georgia và những hòn đảo nhỏ hơn gọi là South Sandwich Islands. South Georgia dài 165 km và rộng từ 1 đến 35 km. Quần đảo South Sandwich nằm cách Georgia khoảng 700 km.

Vịnh Stromness.

Tổng diện tích đất của lãnh thổ là 3.903km vuông. Du lịch đã trở thành nguồn thu nhập trong những năm gần đây, với nhiều tàu thuyền và du thuyền đến thăm khu vực. Lãnh thổ thu lợi nhuận thuế nhập cảng và bán đồ lưu niệm.

 

Các tàu du lịch thường kết hợp chuyến thăm Grytviken và vài nơi khác trên đảo Georgia với một chuyến đi thăm lục địa Nam Cực. Các phần của các hòn quần đảo Gerogia không bị tuyết hay nước băng đá bao phủ quanh năm, nên có núi đá là một phần của vùng sinh thái lãnh thổ của đảo.

Bất chấp vị trí cô lập và môi trường khắc nghiệt, South Georgia đã từng là một phần quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu.

Được phát hiện lần đầu vào năm 1675, hòn đảo không người ở này được thuyền trưởng James Cook (nhà thám hiểm, nhà hàng hải và người chuyên vẽ bản đồ người Anh) tuyên bố thuộc về nước Anh vào năm 1775. Những ghi chép của ông về số lượng vô số những con hải cẩu đã làm dấy lên sự quan tâm của những người săn hải cẩu ở Anh và Mỹ. Trong khoảng thời gian hơn một thế kỷ, hải cẩu ở South Georgia đã bị săn bắt đến bờ tuyệt chủng.

Cho đến đầu 1900, săn hải cẩu không còn lợi về mặt kinh tế nữa nhưng nó nhanh chóng được thay thế bằng một ngành công nghiệp cũng đẫm máu không kém. Một ngày sau khi đến Vịnh Stromness, tàu chở du khách băng qua gió mạnh để đến Vũng King Edward.

Với các xác tàu và các tảng băng nhỏ nằm rải rác trong khi sau lưng là những dãy núi đồ sộ bị phủ mờ trong làn mưa phùn, vịnh biển trải rộng này là địa điểm đặt trạm săn cá voi đầu tiên của South Georgia - Grytviken. Ngày nay, đây là địa điểm có khu định cư chính trên đảo - nơi cư trú của đa số dân, mà cụ thể hơn là tại bất kỳ thời điểm nào cũng có từ 15 đến 30 người, chủ yếu là các nhà khoa học và quan chức chính quyền.

 

Sau khi đến viếng Shackleton, người được chôn cất trong nghĩa trang nhỏ ở Grytviken, du khách được Finlay Raffle - người cai quản bảo tàng ở đây - đưa đi một vòng trạm săn cá voi đã hoang phế. Họ bước giữa khung cảnh thời công nghiệp với những tòa tháp lùn, những nhà kho, nhà máy điện, mê cung những đường ống kết nối với nhau và những chiếc lò to nấu bằng mỡ và xương cá voi - mọi thứ đều nhanh chóng bị gỉ sét.

Dọc theo bờ biển, tàu bè bị sóng thủy triều đánh lên, nằm hỗn độn ở các góc và đang tàn phế ở các mức độ khác nhau. Xương cá voi rải đầy trên mặt đất.

Vào năm 1902, nhà thám hiểm Nam Cực người Na Uy Carl Anton Larsen đã dừng lại ở South Georgia và tình cờ phát hiện một hải cảng tự nhiên xinh đẹp. Sau khi phát hiện những chiếc nồi lớn được dùng để chiết dầu từ mỡ cá, khu vực này được đặt tên là Grytviken (trong tiếng Na Uy có nghĩa là “Vũng Nồi”).

Với ngành đánh bắt cá voi ở Bắc Bán cầu xuống dốc do sự suy giảm số lượng cá voi, Larsen đã nhìn thấy cơ hội kinh doanh. Ông trở lại Grytviken vào tháng 11/1904 và thành lập một trạm săn cá voi vốn nhanh chóng phồn thịnh.

Cho đến năm 1912, đã có thêm 6 trạm săn cá voi nữa ở South Georgia, bao gồm cả Stromness. Carl Anton Larsen là một nhà thám hiểm Nam Cực người Na Uy, có đóng góp quan trọng cho việc khám phá Nam Cực, với đóng góp đáng kể nhất khám phá đầu tiên về hóa thạch, nhờ đó ông nhận được giải Black Grant của Hội địa lý Hoàng gia Anh.

 

Thời kỳ phồn thịnh

Suýt nữa là đâm vào một đôi hải cẩu vốn hòa lẫn không phân biệt được vào những máy móc sét gỉ, tàu chở du khách tiến gần tới một chiếc tàu săn cá voi cũ. Với động cơ hơi nước, khoang tàu được gia cố và súng bắn lao móc mạnh, tàu săn cá voi Petrel có thể bắt được tới 14 cá voi trong một chuyến ra khơi. Quay trở lại Grytviken, những con cá voi này sẽ được kéo bằng tời lên theo bờ trượt.

Raffle kể: “Máu với dầu khiến cho bề mặt nó rất trơn, do đó các công nhân sẽ mang ủng có đinh để bám chặt hơn. Họ có một con dao sả cá - một thanh dài với một lưỡi dao cong bén mà họ dùng để lấy mỡ cá ra”. Toàn bộ quá trình này mất 20 phút với mỗi con cá voi. Lúc đầu, những người săn cá voi chỉ quan tâm đến mỡ cá nhưng các quy định sau đó buộc họ phải dùng toàn bộ xác cá - Raffle giải thích và chỉ ra những lưỡi dao xoay đỏ máu và một chiếc lò nấu mỡ cá nặng 24 tấn.

Mặc dù thịt và xương cá được bán để làm thức ăn gia súc và phân bón, nhưng dầu cá mới là lợi nhuận thật sự. “Những loại dầu tốt nhất được dùng trong các sản phẩm thực phẩm như bơ và kem. Dầu loại 2 được dùng trong xà phòng và mỹ phẩm trong khi loại tệ nhất được sử dụng trong sản xuất công nghiệp”.

Dầu cá voi cũng cung cấp chất glycerol vốn được sử dụng trong sản xuất chất nổ và dầu nhờn cao cấp cho súng trường, đồng hồ bấm giờ và các thiết bị quân sự khác. Do đó, nhu cầu dầu cá tăng vọt trong hai cuộc chiến tranh thế giới.

 

Vào thời hoàng kim, có đến 450 người làm việc ở Grytviken - điểm định cư chính của lãnh thổ South Georgia và Quần đảo South Sandwich. Điểm định cư này được nhà vẽ bản đồ người Thụy Điển Johan Gunnar Andersson đặt tên vào năm 1902, ông đã tìm thấy các hũ cũ của người Anh dùng để nấu mỡ hải cẩu thành dầu tại đó. Họ làm việc 12 giờ mỗi ngày, bảy ngày một tuần ở nhiệt độ có thể xuống tới dưới -10 độ C.

Larsen rất hăm hở đáp ứng nhu cầu tâm linh của họ. Ông cho xây một nhà thờ ấn tượng theo kiến trúc tân Gothic. Tuy nhiên, theo lời Raffle, vị mục sư là người “có ít việc nhất ở nơi này”.

Thay vào đó, rạp chiếu bóng, sân bóng đá gió thổi lồng lộng và cầu nhảy trượt tuyết - giờ đây chỉ là một vài mảnh gỗ vỡ nhô ra từ ngọn đồi - được ưa chuộng hơn. Nơi bán hàng hóa cũng là nơi giải trí.

Khu bảo tồn hải dương

Du khách được dẫn đến ngôi nhà của người quản lý cũ - một tòa nhà đơn giản, sơn trắng vốn đã được chuyển thành bảo tàng. Những vật trưng bày bên trong có những con số giật mình: 175.250 con cá voi đã được chế biến ở South Georgia trong giai đoạn từ năm 1904 cho đến 1965 khi ngành đánh bắt cá voi suy sụp do đánh bắt quá mức và sự phát triển của ngành công nghiệp hóa dầu.

 

Nếu chúng ta nhìn toàn bộ vùng Nam Cực và bao gồm luôn cả những “con tàu phân xưởng” vốn chế biến cá voi luôn trên tàu thì có gần 1,5 triệu con cá voi bị tàn sát trong những năm từ 1904 cho đến 1978, khi việc săn cá voi cuối cùng cũng chấm dứt.

Số lượng cá voi vẫn chưa được phục hồi. Ủy ban Cá voi Quốc tế (IWC) cho biết số lượng cá voi xanh ở Nam Bán cầu đã giảm từ mức 200.000 xuống còn vài ngàn; cá voi vây cũng có sự sụt giảm số lượng tương tự. Ước tính có 60.000 con cá voi lưng gù ở Nam Bán cầu, nhưng con số này cũng là thấp hơn nhiều so với trước thời kỳ công nghiệp khai thác cá voi.

Vào tháng 9/2018, IWC có kế hoạch thành lập một khu an toàn dành cho cá voi ở nam Thái Bình Dương nhưng đã bị các nước ủng hộ săn cá voi bác bỏ. Nhật Bản sau đó còn thông báo họ sẽ nối lại việc săn cá voi thương mại lần đầu tiên trong 3 thập niên, gây ra phẫn nộ trên toàn cầu. Không thể phủ nhận số phận của loài cá voi là đáng buồn, nhưng ở khía cạnh khác, South Georgia đã trở thành một hình mẫu bảo tồn khó tin.

Là một trong những khu bảo tồn hải dương lớn nhất thế giới, Khu bảo tồn Hải dương South Georgia và Quần đảo Nam Sandwich được thành lập ở đây vào năm 2012 để bảo vệ hơn một triệu cây số vuông vùng biển xung quanh, trong khi số lượng hải cẩu đã phục hồi - hòn đảo này giờ đây là nơi cư trú của 98% số hải cẩu Nam Cực và xấp xỉ 50% số hải tượng Nam Cực.

Seb Coulthard cho biết: “Khi anh đi dạo quanh những chỗ này, tất cả những gì anh thấy sẽ là những chiếc nồi đun gỉ sét, những chiếc lò nấu mỡ cá và những chiếc cưa để cưa xương. Có một điều mỉa mai cay đắng là đó là một ngành khủng khiếp và tàn bạo, nhưng thế giới tự nhiên đã có sự trả thù ngọt ngào bằng cách giành lại lãnh thổ. Đó là lời nhắc nhở rằng thiên nhiên không cần con người mà loài người chúng ta cần đến thế giới tự nhiên”.

 

 
 

End of content

Không có tin nào tiếp theo

Cột tin quảng cáo

Có thể bạn quan tâm