Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, dịch bệnh đã từng bước được khống chế và đẩy lùi, cả nước đang bước vào giai đoạn phục hồi nhưng vẫn cảnh giác, vừa chống dịch vừa phát triển kinh tế.
Khối doanh nghiệp nhỏ và vừa tuy chịu ảnh hưởng nặng nề nhưng cũng chứng tỏ sức mạnh bền bỉ, sáng tạo, đổi mới, vượt qua khó khăn, đóng góp vào sự phát triển ổn định kinh tế đất nước. Tuy tỷ lệ tăng trưởng GDP thấp nhưng kim ngạch xuất khẩu tăng, đó là tín hiệu rất đáng mừng khẳng định tiềm năng cần khai thác.
Chỉ riêng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng rau quả trong năm 2021 đạt hơn 3,5 tỷ USD, đã vượt xa kim ngạch xuất khẩu dầu thô, mà lực lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia với số lượng lớn vào xuất khẩu rau quả.
Mặc dù có những điểm sáng như vậy, nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn phục hồi tới đây. Những khó khăn từ trước tới nay là những vấn đề lớn của doanh nghiệp mà Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam luôn kiên trì bảo vệ, kiến nghị tới các cấp có thẩm quyền nhằm hỗ trợ doanh nghiệp như cải cách thủ tục hành chính, hỗ trợ tiếp cận vốn, tiếp cận công nghệ… thì qua thời kỳ dịch bệnh, khó khăn này lại càng chồng chất.
Đơn cử như vấn đề thủ tục hành chính, các quy định về xác định mức độ dịch với các vùng đỏ, vùng xanh, vùng cam, biện pháp quy định cách ly của các địa phương ảnh hưởng rất lớn tới lưu thông hàng hóa và dịch chuyển lao động.
Những ngày giáp Tết Nhâm Dần, nhiều lao động xin nghỉ sớm về quê ăn Tết bởi khi về phải cách ly 7 ngày, ngày Tết, sức mua hàng hóa tăng cao, nhưng các thủ tục kiểm tra phòng dịch cũng góp phần làm ùn ứ dòng lưu thông của hàng hóa. Đó là chưa kể đến những việc làm tiêu cực, làm luật để nhũng nhiều doanh nghiệp như vụ phải chi ngầm lên tới hàng trăm triệu để thông quan tại cửa khẩu Lạng Sơn như báo chí đã nêu.
Nhìn lại các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, từ trước đến nay đã có nhiều giải pháp từ Chính phủ, các bộ, ngành nhưng sự thụ hưởng, hấp thu từ các doanh nghiệp là thấp, chưa mang lại hiệu quả, nguyên nhân có từ nhiều phía nhưng cơ bản là các thủ tục quy định quá chặt chẽ khiến doanh nghiệp khó tiếp cận. Các chính sách mới xuất phát từ phía nhà cung cấp chính sách, dịch vụ mà chưa quan tâm tới điều kiện và khả năng hấp thu của doanh nghiệp.
Trong thời gian qua, chính sách trợ cấp khó khăn cho DN, người lao động còn chưa hiệu quả. Ví dụ gói 62.000 tỷ đồng, sau đó là gói 26.000 tỷ đồng. Nghị quyết 68 quy định các trường hợp được hỗ trợ nhưng người lao động tại các DN gặp khó khăn thực sự thì không được hỗ trợ. Chỉ đến khi Nghị quyết 116 điều chỉnh Nghị quyết 68, người lao động được hưởng trợ cấp từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp được cộng đồng DN đánh giá hiệu quả. Trong điều kiện bình thường tiếp cận vốn đã khó khăn, trong thời kỳ dịch bệnh, khó khăn này lại tăng lên nhiều lần.
"Trong khuôn khổ hội nghị về tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp hôm nay, Hiệp hội mong rằng các doanh nghiệp nêu rõ các khó khăn của mình và kiến nghị các vấn đề hết sức cụ thể, khả thi để các bên liên quan cùng ngồi lại, phân tích và đề ra các hành động phù hợp, hỗ trợ doanh nghiệp", bà Hường nhấn mạnh.
Ngân hàng nói riêng và các tổ chức tín dụng nói chung với các doanh nghiệp đều là những người kinh doanh, có mối quan hệ tương hỗ với nhau, là bạn hàng của nhau, là đối tác của nhau. Nhưng trên thực tế vai trò của các ngân hàng là các doanh nghiệp lớn, tiềm lực kinh tế mạnh. Nói một cách dân dã là ở "cửa trên" trong mối quan hệ qua lại này.
Trong khi đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa với số lượng đông đảo, sự đóng góp tích cực cho nền kinh tế đất nước nên doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng có vai trò hết sức to lớn, điều này cũng đã được khẳng định. Chính vì vậy, sự kết nối, phối hợp nhằm mục đích cuối cùng là hỗ trợ hiệu quả cho doanh nghiệp là một việc làm hết sức kịp thời trong giai đoạn khó khăn này.
Về giải pháp cụ thể, bà Hường đề nghị: "Mỗi ngân hàng xây dựng 1 chính sách đặc biệt chăm sóc cho các DN đang là khách hàng của mình, điều kiện là DN có phát sinh doanh thu trong 2 năm qua, hoặc các DN ở các lĩnh vực ngành nghề đang có cơ hội phục hồi tốt. Mức đề xuất khoản vay tín chấp 1 tỷ đồng cho thời hạn 12 tháng. Những ngày đầu năm 2022, các kết quả kinh doanh từ các ngân hàng với các con số và tỷ lệ lợi nhuận ấn tượng từ các ngân hàng cũng truyền cảm hứng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hy vọng rằng với các hỗ trợ kịp thời từ các chính sách của Chính phủ cũng như sự vào cuộc của các tổ chức tín dụng sẽ mang lại cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa những kết quả tăng trưởng ấn tượng trong năm 2022".
PGS - TS Trần Đình Thiên: Đề xuất cụ thể của VINASME như cho vay tín chấp 1 tỷ đồng là điều doanh nghiệp "đã kêu thảm thiết" suốt 2 năm qua
Tại diễn đàn, PGS - TS Trần Đình Thiên đánh giá bài tham luận của bà Hường đã nhấn mạnh trong tình hình khó khăn hiện nay của cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, ngân hàng phải chia sẻ với DN nhiều hơn nữa dù 2 năm qua các ngân hàng chia lửa, đồng hành rất tích cực với DN. Tuy nhiên, điều đó vẫn chưa đủ vì lãi suất còn cao, doanh nghiệp tiếp cận vốn còn khó, quy định không phù hợp với tình huống bất bình thường hiện nay.
"Về phía DN, cộng đồng DN cần có cách tiếp cận bài bản hơn, không chung chung, để các ngân hàng không bị "mắc tội". Những đề xuất cụ thể mà bà Hường thay mặt VINASME đưa ra như cho vay tín chấp 1 tỷ đồng là điều mà DN đã "kêu thảm thiết" suốt 2 năm qua. DN muốn được vay tín chấp. Hệ thống ngân hàng hãy đặt niềm tin vào DN, tạo điều kiện hơn nữa trong việc hỗ trợ doanh nghiệp. Hạ lãi suất chưa quan trọng bằng kéo dài thời gian cho vay. Nhu cầu tiếp cận vốn quan trọng hơn là hạ lãi suất. Đề xuất này xuất phát từ tình hình thực tế của DN", ông Thiên bày tỏ.
Muốn khuyến khích được các doanh nghiệp thương mại thì cần điều chỉnh ngay việc hoàn thuế VAT
Trao đổi tại diễn đàn, đại diện Công ty Vietgo cho rằng, qua16 năm làm xúc tiến xuất khẩu, DN nhận thức được rằng, muốn phát triển được, khi Việt Nam đã ký được một loạt FTA thì DN FDI sẽ phát triển trước, lớn hơn, có kinh nghiệm hơn, Việt Nam được hưởng lợi về nguồn vốn ngoại. Nhưng DN Việt Nam chỉ đóng góp 25% vào kim ngạch xuất khẩu.
Do đó, đại diện Vietgo đề xuất trong cấu trúc của thị trường xuất khẩu, bắt buộc phải khuyến khích đối tượng làm thương mại. Trong ngành xuất khẩu có 2 đối tượng: công ty sản xuất và công ty thương mại. Hiện công ty sản xuất đều nằm ở các tỉnh, công ty lớn đã XK được, những công ty trực tiếp xuất khẩu được mới chỉ hơn 10%. Còn các DN khác sản xuất và bơm hàng để xuất khẩu đi. Việt Nam cần khuyến khích các DN thương mại. Muốn làm được việc này, phải thay đổi một thế hệ DN, các DN mới.
Muốn khuyến khích được các DN thương mại cần điều chỉnh ngay việc hoàn thuế VAT. Muốn khuyến khích được DN thương mại, DN sẽ mua hàng của công ty sản xuất trong nước, chắc chắn họ được hoàn thuế VAT. Thông thường DN thương mại sẽ để lại khoảng 30%. Với việc VAT đầu vào DN không được hoàn đồng nghĩa với việc DN đang để ra đấy khoảng 7%. Chúng ta tham gia FTA, rất mất công để có được mức thuế ưu đãi trong khi để mất 7% này là quá đáng tiếc.
Khi DN trong nước xuất khẩu quá khó để hoàn thuế, nên họ cộng thêm vào lãi và khi họ cộng thêm vào lãi, có nghĩa là họ cộng thêm 7%, từ đó giá bị đội lên 7%.
Kiến nghị thứ hai là khơi thông dòng chảy về vốn. Vốn ngoại là vô tận - phải khơi được nguồn vốn này, khi đó cả DN, Nhà nước và ngân hàng đều được lợi. Nếu có đội ngũ tư vấn thanh toán quốc tế chuyên nghiệp thì tức khắc khơi thông được vốn ngoại. Theo đó, ngân hàng sẽ "mở toang", từ chốt nhỏ sẽ mở toang cánh cửa lớn.
Doanh nghiệp cần hỗ trợ về chuyển đổi số
Bà Nguyễn Thị Đông - Tổng Giám đốc Công ty Hoa Lan chia sẻ: 2 năm đối mặt với dịch bệnh COVID-19, cũng như nhiều DN khác, Hoa Lan gặp vô vàn khó khăn. Đã có lúc DN nghĩ đến cảnh bị phá sản khi người nông dân liên tục gọi điện DN đến lấy hàng nhưng DN không thể làm gì khi các địa phương thực hiện chính sách giãn cách xã hội. Dây chuyền sản xuất cũng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh.
Tuy vậy, trong khó khăn, DN đã thực hiện việc cải tiến máy móc thiết bị, giảm lao động với việc dây chuyền sản xuất giảm từ 6 người xuống còn 4 người. Những nỗ lực vượt khó của Hoa Lan đã giúp DN đến giờ làm không hết việc khi có nhiều đơn từ nước ngoài. DN cũng bán hàng thuận lợi hơn khi áp dụng hình thức kinh doanh mới trên môi trường số.
Bà Đông kiến nghị Nhà nước hỗ trợ DN đào tạo về chuyển đổi số để các DN do nữ làm chủ thích ứng tốt hơn trong bối cảnh mới.
Nhiều doanh nghiệp có thể rời bỏ thị trường bất cứ lúc nào
Đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tỉnh Sóc Trăng cho biết, trong 2 năm qua, có trên 80% DNNVV của tỉnh đang trong tình trạng rất khó khăn và có thể rời bỏ thị trường bất cứ lúc nào. Nguyên nhân khách quan là do sự diễn biến phức tạp của dịch bệnh COVID-19 làm cho các doanh nghiệp này không có doanh thu, không còn vốn để tổ chức sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, sức chiến đấu của DN vẫn còn nhiều, vì vậy rất cần sự hỗ trợ của nhà nước.
Liên quan đến vấn đề cơ cấu nợ, đại diện Hiệp hội DNNVV tỉnh Sóc Trăng cũng cho biết, theo thống kê, trong 2 năm từ 2020-2021, các DN bị mất khoảng 15 tháng không có doanh thu. Hiện tại, các DN này đều đã rất kiệt sức và có nguồn vốn được đánh giá dựa trên tài sản hợp lý để có thể được vay vốn bổ sung để có thể trụ lại và duy trì sản xuất.
Nói về vấn đề hỗ trợ lãi suất cho DN vừa qua, vị này cho biết, nhiều ngân hàng tổ chức tín dụng đã hy sinh lợi ích của mình để chia sẻ khó khăn cho DN. Tuy nhiên, thời gian qua có những DN hoạt động ko liên tục và bị cơ quan thuế rút giất phép kinh doanh. Điều này đã làm cho DN gặp nhiều bất lợi.
Chịu tác động nặng nề nhất là ngành du lịch, vận tải, khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí, DN sản xuất theo chuỗi giá trị bị đứt gãy. Đối với một số tỉnh hiện nay trong đó có cả tỉnh Sóc Trăng vẫn không được xem xét để hỗ trợ tiền điện cho DN. Điều này làm cho DN hết sức lo lắng. Làm thế nào đó, trong gói hỗ trợ mới nhất của chính phủ, các tổ chức tín dụng nên đánh giá lại tài sản của DN, từ đó cho DN vay bổ sung. Nếu gói này được hỗ trợ đến DN thì có khoẳng 60% DN có thể hồi phục được.
Đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét tiếp tục kéo giãn nợ gốc đến hết năm 2022
Đại diện Hiệp hội DNVVN Đà Nẵng đề xuất: Thứ nhất, đề nghị NHNN xem xét tiếp tục kéo giãn nợ gốc đến hết năm 2022. Cụ thể, DN chỉ hạch toán tiền lãi còn tiền gốc sẽ để DN thanh toán vào năm 2023 trở đi để giúp DN có sức mạnh và nguồn vốn đề tiếp tục kinh doanh.
Thứ hai: Đối với các DN cần nguồn vốn hoặc vẫn có khả năng tiếp tục kinh doanh được thì đề nghị các ngân hàng cho kéo dãn phần lãi suất vay. Đề nghị các NHNN cho phép các NHTM được tính lãi trên phần lãi được kéo giãn đó. Các DNNVV cần được yên ổn để có nguồn vốn để tiếp tục kinh doanh. Cùng đó, vị này cũng đề nghị, các ngân hàng nên cố gắng tiết kiệm chi phí, tinh giảm nhất có thể để giảm thêm từ 0,5 -1% cho DN.
Thứ ba: Đề nghị các ngân hàng nên xem xét cơ cấu đánh giá lại tài sản của DN. Đánh giá lại để có thể nâng hạn mức lên để các DN có nhu cầu kinh doanh đang cần vốn, giúp các DN và các ngân hàng có mối quan hệ tốt hơn.
Đại diện Hiệp hội cũng cho biết thêm, HĐND Đà Nẵng đã ra nghị quyết đồng ý cho Quỹ đầu tư phát triển thành phố cho mỗi DNNNV vay số vốn dưới 10 tỷ với lãi suất ưu đãi đặc biệt là giảm 50% trong vòng 2 năm. Như vậy ở mức có 3,5% trong 1 năm.
Có thể nói, DN có tồn tại được hay không thì những chính sách của nhà nước rất quan trọng và là nệ đỡ giúp DN phát triển. Những hỗ trợ DN ở thời điểm này tuy không lớn nhưng chính là những động viên giúp DN có được sự an ủi trong lúc khó khăn.
Năm 2021 có hơn 100.000 doanh nghiệp đã phải đóng cửa, giải thể
Theo ông Nguyễn Hoa Cương – Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, trong năm 2021 có hơn 100.000 doanh nghiệp đã phải đóng cửa, giải thể. Con số này tăng lên theo các năm. Đặc biệt trong 2 năm đại dịch COVID-19 xảy ra vừa qua thì con số này cao hơn nữa.
Hiện nay, chỉ tính riêng doanh nghiệp FDI chiếm hơn 70% giá trị xuất khẩu. Còn lại các DN Việt Nam tham gia vào thị trường này rất thấp.
Theo khảo sát của Tổng cục Thông kê, tỷ lệ % doanh thu các DN dành cho hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo chỉ chiếm dưới 1%. Ngân sách DN thực sự dành cho DN khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo vẫn còn rất thấp. Trong khi các nước ASEAN tỷ lệ này chiếm 5-7%. Các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản tỷ lệ này chiếm 30-40% thậm chí có nước lên đến 50%.
Cùng đó, số DN tham gia vào các chuỗi giá trị còn rất thấp. Mới chỉ 21% DN tham gia vào các chuỗi giá trị. Đây thực sự là một vấn đề lớn mà chúng ta cần phải lưu ý.
Thời gian qua, có rất ít nghiên cứu đánh giá sâu về đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp. Nếu có đánh giá chỉ hạn chế khoảng vài tram doanh nghiệp, chưa có đánh giá nào lên tới hàng nghìn DN. Với tình trạng trên, vấn đề không phải chuyện DN khoẻ hay yếu mà vấn đề ở chỗ bức tranh nói về DN của chúng ta nhiều chỗ vẫn chưa có màu. Chưa xác định được tình trạng thực sự của DN như thế nào; từ đó, việc nhận định đúng thực chất DN mới đề xuất thiết kế các chính sách đúng và quan trọng hơn là triển khai các chính sách sao cho có hiệu quả.
Trong bối cảnh liên quan đến các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp từ trước đến nay theo thông lệ thông thường chia 3 nhóm vấn đề chính:
Thứ nhất: Nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh. Nghị quyết 02 được đưa ra là chiến lược rất lâu dài, nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh, thân thiện hơn, giúp giảm chi phí cho DN, chi phí cho người dân, tạo điều kiện tốt nhất cho DN. Nghị quyết này đã và đang thực hiện rất tốt.
Thứ hai: Các giải pháp giúp DN tiếp cận tài chính. Bản chất tất cả các giải pháp hỗ trợ DN là làm thế nào phát triển nhiều sản phẩm tài chính cho DN với chi phí hợp lý để DN có thể tiếp cận được.
Thứ ba: Liên quan đến vấn đề phi tài chính bao gồm các dịch vụ phát triển kinh doanh liên quan đến đào tạo, thông tin, mở rộng thị trường, khoa học công nghệ… ; có rất nhiều cơ quan đã và đang thực hiện các biện pháp để hỗ trợ doanh nghiệp về vấn đề này.
Nếu chúng ta muốn có sự tăng trưởng đột phá không còn cách nào khác ngoài việc chúng ta cần thay đổi khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong các DN. Đây chính là yếu tố mang lại sự thay đổi nhiều nhất đối với chất lượng DN.
Các ngân hàng luôn cam kết, chia sẻ khó khăn với các doanh nghiệp
Bà Nguyễn Thị Mai Sương, Trưởng ban Pháp luật – Nghiệp vụ, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam: Nhiệm vụ trọng tâm của các ngân hàng giai đoạn này là hỗ trợ tích cực cho các khách hàng, các tổ chức, DN đặc biệt là những đối tượng chịu tác động tiêu cực bởi dịch bệnh COVID-19. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng thực hiện miễn, giảm, cơ cấu lại nợ cho khách hàng, người dân theo các Thông tư 01; 03; 14 của Chính phủ.
Bên cạnh đó, các ngân hàng luôn cam kết, chia sẻ khó khăn cho các DN, khách hàng và các đối tượng chịu ảnh huởg bởi dịch bệnh. Thời gian qua, đã có hơn 30.000 tỷ đồng đã được các ngân hàng giảm lãi suất cho vay, hơn 5 triệu khách hàng được thụ hưởng từ các cơ chế chính sách hỗ trợ của Chính phủ.
Mặt khác, các NHTM cũng đã giảm phí thanh toán, tăng cường các giao dịch điện tử, thực hiện nhiều hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, không phải trực tiếp ra ngân hàng để giao dịch.
Đối với các giao dịch như mở tài khoản, thanh toán, chuyển tiền, thanh toán các dịch vụ công… đã có hơn 80% được thực hiện bằng thanh toán điện tử tạo thuận lợi cho khách hàng.
Về công tác tín dụng, bà Sương cho biết, đối với những kiến nghị liên quan đến kéo dài thời gian vay, giảm lãi suất cho vay NHNN sẽ cố gắng đưa ra những chính sách phù hợp với DN. Nhưng việc giảm như thế nào, giảm nợ gốc hay giảm lãi suất thì đây là việc riêng giữa NHTM và các DN.
Liên quan đến kiến nghị hỗ trợ giãn lãi suất vay cho các DN, theo bà Sương, NHNN sẽ chỉ đạo chung cho các ngân hàng. Còn việc cơ cấu lại nợ, kéo dài thời gian nợ, giảm lãi suất các khoản nợ sẽ được triển khai phù hợp với điều kiện DN. Lãi suất giảm như thế nào, giảm lãi đối với nợ gốc hay giảm đối với phần lãi thì hoàn toàn phụ thuộc vào NHTM và DN. NHTM sẽ đánh giá được mức độ của DN, khả năng phục hồi sản xuất của DN từ đó sẽ có những chính sách cụ thể.
DN muốn vay ngân hàng thì DN cũng cần phải đổi mới, kiện toàn, tăng cường năng lực tài chính. Đủ điều kiện thì ngân hàng sẽ đáp ứng được nhu cầu của DN.
Cùng đó, bà Sương cũng đề nghị Chính phủ, Bộ Kế hoạch & Đầu tư cùng các địa phương làm thế nào để sử dụng, phát triển Quỹ hỗ trợ DNNVV một cách hiệu quả nhất để hỗ trợ DN, cũng là hỗ trợ ngành ngân hàng khi các DN vẫn chưa có đủ khả năng cũng như tài sản đảm bảo.
Không thể cứ mãi là chuyện "xin - cho", các Hiệp hội cần đề xuất yêu cầu với Chính phủ như đối tác bình đẳng
Đánh giá về hoạt động "chia lửa" của ngân hàng với DN, PGS - TS Trần Đình Thiên cho biết cho đến bây giờ, hỗ trợ kinh tế của Việt Nam so với mức chung của thế giới còn rất ít, trong đó đặc biệt là chính sách tài khóa còn ít hơn. Phần hỗ trợ DN chủ yếu hiện nay là chính sách tiền tệ. Điều này ghi nhận công lao của hệ thống ngân hàng, bao gồm NHNN và các NHTM.
Việc thực hiện chính sách giảm giá điện, nước... đa phần cũng là DN hỗ trợ DN. DN Việt Nam trong điều kiện khó khăn, cộng đồng hỗ trợ chia lửa trong 2 năm qua rất tốt. Mặc dù chính sách tài khóa ủng hộ rất tích cực về thuế, phí, đưa ra một lượng ngân sách nhất định nhưng vẫn thiên về bảo vệ an toàn ngân sách hơn là bảo vệ động cơ tăng trưởng. Đáng lẽ Nhà nước phải chia lửa nhiều hơn với cộng đồng DN.
Chính sách phục hồi lần này của Chính phủ có đặc điểm khác với các nước, đó là "phục hồi và phát triển". Trong khi đó, đa phần các nước trên thế giới chỉ dừng lại ở "phục hồi". Việc đưa ra chính sách này bắt nguồn từ chỗ Việt Nam nhận thức đây là cơ hội để nền kinh tế thay đổi và phát triển mạnh mẽ, là cơ hội để Việt Nam hướng đến tương lai theo nghĩa cải cách và đột phá.
DN cũng phải hiểu rằng, chúng ta đang đứng trước cơ hội thay đổi mình. Do đó việc tái cơ cấu DN là cơ hội và DN phải chủ động làm. DN cần mượn sức để tái cơ cấu DN.
Về phía chính sách tiền tệ, ngân hàng có giới hạn cho việc đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, không thể tự do hạ lãi suất, không thể cứ đổ tiền vào để cứu. Tại sao lãi suất ngân hàng cao? Hạ đến mức nào sẽ tổn hại đến an toàn ngân hàng? Cho vay đến mức nào sẽ tổn hại đến an toàn ngân hàng? Nếu hỗ trợ doanh nghiệp tốt thì đề nghị ngân hàng tiếp tục làm. Dư địa hạ lãi suất, dư địa để có thể đưa ra tiêu chuẩn cho vay với DN không quá rủi ro, điều kiện cho DN vay nên cởi mở hơn một chút.
Tuy nhiên, cần lưu ý, hệ thống ngân hàng là phòng tuyến an toàn cuối cùng của nền kinh tế. Nguyên tắc tối cao là đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng. Trong cách tiếp cận về chính sách tiền tệ, NHNN khẳng định bơm tiền quá là nguy cơ lạm phát. Tuy nhiên, NHNN cũng nói chú ý rủi ro nhưng vẫn phải bơm tiền đủ cho DN phục hồi. Việc đảm bảo lạm phát cũng được giải thích trên tinh thần đảm bảo an toàn cho DN, bảo vệ nền kinh tế vĩ mô ổn định. Đủ vốn cho DN và đảm bảo ổn định vĩ mô đều theo tinh thần phục vụ DN.
Ngoài ra, cần tiếp cận theo từng tuyến ngành, nhóm ngành, từng chuỗi sản xuất để có đề xuất về chính sách phù hợp hơn. Cấu trúc DN Việt Nam mỏng manh, nhiều DN nhỏ nên dễ bị tổn thương. Cần quan tâm đến cơ cấu, lực lượng DN nhiều hơn là số lượng DN, triển vọng của các nhóm ngành gắn với ngân hàng để có các đề xuất, lựa chọn ưu tiên, lựa chọn hỗ trợ.
Lúc này, vai trò của các Hiệp hội rất quan trọng, cùng với ngân hàng, cùng với Chính phủ để đề ra chính sách cụ thể và phù hợp hơn, từ đó mới hỗ trợ hiệu quả cho DN phục hồi và phát triển. Hiệp hội nên tổ chức các sự kiện, thảo luận để đánh giá triển vọng một cách xác thực hơn, từ đó có giải pháp thiết thực hơn với cộng đồng doanh nghiệp.
Thêm vào đó, cách đặt vấn đề với Chính phủ mãi không thể là "xin - cho", bây giờ Hiệp hội cần đề xuất yêu cầu với Chính phủ như đối tác bình đẳng, từ đó chất lượng các đề xuất chính sách sẽ tốt hơn nhiều.
Phát biểu kết luận Diễn đàn“Tăng cường giải pháp tài chính và giao dịch điện tử hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội năm 2022”, ông Tô Hoài Nam - Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng Thư ký VINASME cho biết, sau hơn 2 tiếng đồng hồ, diễn đàn đã được lắng nghe 9 ý kiến trực tiếp và tại các điểm cầu. Các bài tham luận hàm chứa những nội dung khoa học, nhiều đề xuất mạnh dạn với mong muốn cộng đồng doanh nghiệp tiếp tục được hỗ trợ để phục hồi và phát triển.
Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam sẽ tổng hợp đầy đủ các ý kiến để phản ánh lên Đảng, Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan liên quan để mục tiêu tổ chức diễn đàn được phát huy hiệu quả cao nhất, hỗ trợ tốt nhất cho cộng đồng doanh nghiệp, từ đó tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội năm 2022.