Áp lực dòng tiền đeo bám, có doanh nghiệp tồn kho lên tới… 149 năm
Đẩy mạnh liên kết vùng để miền Trung – Tây Nguyên phát triển bền vững / Doanh nghiệp có chiến lược phát triển bền vững phục hồi sau khủng hoảng tốt hơn
Áp lực dòng tiền
Từ phân tích sơ bộ báo cáo tài chính của gần 1.600 doanh nghiệp (DN) niêm yết trên trên 3 sàn giao dịch chứng khoán ở Việt Nam trong thời gian từ 2018 đến 6 tháng đầu năm 2023, Ban IV nhận thấy, doanh thu các ngành giảm từ giữa năm 2022 đến nay, nghiêm trọng nhất là hai ngành bất động sản và xây dựng.
Đến hết quý II/2023, tình hình vẫn chưa được cải thiện. Doanh thu 6 tháng đầu năm 2023 của 8/10 ngành đều thấp hơn cùng kỳ năm 2022, chỉ có ngành công nghệ thông tin là tăng quy mô và ngành hàng, dịch vụ tiêu dùng giữ nguyên quy mô doanh thu so với cùng kỳ.
Dù đã niêm yết nhưng DN Việt vẫn có đặc trưng là vốn chủ sở hữu mỏng, các hoạt động dựa nhiều trên vốn vay. Do đó, khi huy động vốn gặp khó khăn, DN sẽ gặp khó khăn ngay lập tức.
Trong bối cảnh suy giảm đơn hàng, khó huy động vốn qua trái phiếu, cổ phiếu, khó tiếp cận vốn vay ngân hàng, dòng tiền trở thành vấn đề cấp thiết nhất của DN. Ngành nào có tỷ lệ nợ, vốn chủ sở hữu lớn thì càng gặp khó khăn.
Báo cáo chỉ ra rằng, khi so sánh chi phí lãi vay so với lợi nhuận sau thuế của DN thì tỷ lệ rất đáng kể. Cụ thể, năm 2022, ngành xây dựng có tỷ lệ chi phí lãi vay so với lợi nhuận cao nhất, lên đến 375%, tiếp đó là ngành hàng và dịch vụ tiêu dùng 44,8%, còn bất động sản 40,2%.
“Điều này hàm ý, khi kinh doanh, DN chịu rủi ro chính nhưng thành quả được hưởng không nhiều, bị xói mòn do chi phí tài chính nên không có tích lũy để tái đầu tư”, báo cáo nêu.
Liên quan đến chi phí thuế, 1/4 nhóm DN có quy mô nhỏ nhất 3 sàn có áp lực lớn nhất. Năm 2020, tỷ lệ chi phí thuế, lợi nhuận sau thuế lên đến 51,5%. Năm 2022, đa số nhóm DN này lỗ.
Theo đánh giá của Ban IV, DN xây dựng và bất động sản gặp vấn đề lớn nhất về dòng tiền khi số ngày phải thu và số ngày tồn kho tăng lên nhiều lần.
Trong đó, số ngày phải thu trung bình của DN xây dựng quý I/2022 là 463 ngày thì sang quý I/2023 lên đến 1165 ngày. Dù hết quý II/2023 giảm xuống còn 598 ngày nhưng cũng cho áp lực dòng tiền của DN xây dựng. Bên cạnh đó, số ngày tồn kho trung bình quý I/2023 lên đến 4527 ngày, so với 661 ngày của quý I/2022.
Số ngày tồn kho trung bình của DN bất động sản quý I/2023 cũng lên đến 5662 ngày, cá biệt là có DN có số ngày tồn kho lên đến 54334 ngày.
Nói cách khác, với tình hình bán hàng như hiện tại, DN phải mất 149 năm mới bán hết giỏ hàng.
Cần tập trung hỗ trợ dòng tiền
Từ kết quả phân tích trên, đồng thời xuất phát từ thực tiễn kinh doanh, sản xuất của DN và bối cảnh trong nước, thế giới hiện nay, Ban IV cho rằng, các chính sách trước mắt cần tập trung vào hỗ trợ dòng tiền thông qua hỗ trợ tiếp cận vốn và giãn, giảm chi phí cho DN.
Trong cơ cấu chi phí của DN, chi phí vận hành là trách nhiệm của DN và để cứu mình, nhiều DN đã phải chủ động cắt giảm chi phí, giảm quy mô hoạt động và quy mô lao động.
Các phần chi phí khác như chi phí lãi vay, chi phí thuế -phí, chi phí bảo hiểm xã hội... nằm trong không gian chính sách của Nhà nước. Do đó, Chính phủ có thể trọng tâm thực hiện các chính sách giúp DN tiếp cận vốn hiệu quả; giãn, giảm chi phí, tạo dòng tiền ngắn hạn ít nhất trong nửa cuối năm 2023 (hoặc nửa đầu năm 2024 tùy độ trễ của chính sách).
Liên quan đến chính sách tiền tệ, Ban IV cho rằng, trọng tâm chính sách là lãi suất cho vay phải giảm thực sự để hỗ trợ DN, vì lãi suất cho vay hiện tại dù đã giảm nhưng vẫn còn ở mức cao so với các nước khác.
Đồng thời, trong bối cảnh phục hồi, các ngân hàng thương mại cần nhìn vào khả năng trả nợ tương lai của DN để tăng cơ hội tiếp cận tín dụng chứ không chỉ nhìn vào tài sản thế chấp.
Bên cạnh đó, cần ưu tiên lãi suất thấp hơn cho các DN xuất khẩu, các DN vừa và nhỏ. Các ngành có nhiều rủi ro cần chấp nhận lãi suất cao hơn.
Riêng đối với lĩnh vực bất động sản, hệ thống ngân hàng có thể cân nhắc cho phép các DN cung cấp sản phẩm thuộc phân khúc phục vụ nhu cầu thiết yếu, ưu tiên được giãn nợ, giữ nhóm nợ theo tinh thần thông tư 02/2023/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước.
Về chính sách tài khóa, Ban IV cho biết, thông qua phân tích, có thể thấy nội lực DN suy yếu, lại phải đối mặt nhiều khó khăn do tổng cầu giảm nên việc hấp thụ vốn sẽ gặp nhiều khó khăn. Do đó, bên cạnh chính sách tiền tệ, cần xem xét thực hiện chính sách tài khóa nghịch chu kỳ để thúc đẩy tổng cầu.
Trong đó, đẩy mạnh đầu tư công, tập trung vào các cơ sở hạ tầng lớn, vừa để hỗ trợ các DN ngành xây dựng và vật liệu xây dựng, vừa nâng cao năng lực của quốc gia. Chú trọng phát triển nhà ở xã hội để đáp ứng nhu cầu thực của người lao động và hỗ trợ các DN bất động sản. Xem xét các giải pháp giãn, giảm áp lực thuế và chi phí khác, tạo dòng tiền ngắn hạn cho DN.
Không ban hành quy định làm phát sinh chi phí mới
Trong ngắn hạn, Ban IV kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương, cơ quan không ban hành các quy định làm phát sinh các loại phí, chi phí mới cho DN ít nhất trong nửa cuối năm 2023 và có thể cả nửa đầu năm 2024. Trong giai đoạn từ đầu năm 2024, với các quy định có thể làm phát sinh chi phí của DN, cần các đánh giá tác động thật thấu đáo và toàn diện trước khi hiện thực hóa.
Đối với khoản thu “kinh phí công đoàn” đang chiếm 2% quỹ lương doanh nghiệp trả cho người lao động, Ban IV đề xuất Chính phủ đề nghị Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam xem xét sửa Quy chế tài chính nội bộ cho phép DN giữ lại toàn bộ 2% này trong ít nhất 2 năm tới để tập trung chi trực tiếp cho người lao động. Các năm tiếp theo cũng giảm dần mức đóng góp cho công đoàn cấp trên thay vì tỉ lệ đóng như hiện nay.
Trong trung hạn, xem xét chưa tăng căn cứ tính đóng bảo hiểm xã hội trong quá trình dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi.
Trong dài hạn, cần tiếp tục có những phân tích để thiết kế chính sách thuế thu nhập DN hiện đại hơn, phù hợp với từng nhóm quy mô doanh thu và ngành nghề DN để vừa bảo đảm mục tiêu tăng thu ngân sách vừa bảo đảm việc phát triển nội lực DN, giúp các DN nhỏ, vừa có cơ hội vươn mình.
End of content
Không có tin nào tiếp theo